Chiều
nay trời trở gió, tự dưng tôi thèm được đứng trên chiếc cầu ván bắc ngang con
kinh nhỏ của quê mình, lượm những bông sao thả xuống dòng kinh cho nó xoay xoay
trong gió, thèm được nhìn những đám lục bình xanh rì lặng lờ trôi theo con nước,
nhìn những chiếc xuồng tam bản buông mái chèo xa xa…
Tôi
là người sống ở vùng sông nước, tuổi thơ gắn liền với dòng kinh nhỏ cạnh nhà và
cái cầu ván gập ghềnh bắc ngang kinh. Kinh không có tên, nhưng vì nằm kế ngôi
đình thần của làng Bình Thủy nên người ta gọi là kinh Đình Bình Thủy, còn dân địa
phương chúng tôi thì kêu đơn giản là “cái kinh Đình”. Cù lao Năng Gù - xã Bình Thủy là đất nông nghiệp, đồng ruộng nhiều nên
kinh rạch cũng không ít, vậy mà không hiểu sao kinh Đình dường như lại
được mọi người dành cho một thứ tình cảm thiêng liêng hơn cả. Có phải đó là
tình yêu đất mẹ?
Kinh
Đình, hai chữ nghe sao mà mộc mạc quá, không một người con Bình Thủy nào không
biết kinh nầy, không một ai chưa từng đi qua kinh nầy. Con kinh quá đỗi thân
quen, gần gũi. Thân quen đến mức đôi khi người ta không chú ý đến con kinh nầy,
sự hiện hữu của nó cứ như một lẽ tất nhiên rồi. Gần gũi đến mức, có lúc người
ta quên mất: kinh Đình đó - lớn lao và bình dị vô cùng, là quê hương ta đó, là
chốn về bình yên. Nhưng, kinh Đình có quan tâm những điều đó đâu, mặc cho thế sự
ra sao, ngày đêm nó vẫn âm thầm xuôi chảy.
Riêng
tôi từ nhỏ đã sống ở đây, nhà ngay ngã ba sông, một bên là vàm kinh Đình, phía
sau là con sông Năng Gù. Riết rồi quen, mình trở thành người của sông nước hồi
nào hổng biết. Mười mấy năm lớn lên cùng con kinh, mỗi ngày qua lại hai bên bờ
kinh không biết bao nhiêu lần, tôi đã từng chứng kiến nhiều chuyện vui có, buồn
cũng có, rồi cả tin tức thời sự… quanh kinh Đình.
Nhưng
thôi, mấy chuyện đó là chuyện phiếm. Điều in sâu trong tâm trí tôi nhứt là cái
tình mà bà con đã dành cho dòng kinh nhỏ quê nhà. Tuy không bao giờ nghe ai nói
“tôi yêu kinh nầy quá”, “tôi quý kinh nầy quá”, nhưng ai cũng biết rằng con
kinh nầy có một vị trí lớn lao trong lòng họ.
Tuổi
thơ tôi hằng sâu biết bao ký ức về kinh Đình. Mỗi năm đến mùa nước đổ thì lòng
kinh đỏ ngầu phù sa, chan chứa như tình thương yêu của mẹ. Mùa cạn thì con kinh
rộng chỉ còn là một lạch nước nhỏ chạy dài, nhưng không bao giờ hết nước. Rồi cứ
đến gần Tết, mặt kinh toàn màu xanh, dịu vợi. Lục bình đó! Lục bình trôi theo
con nước theo từng đám, quanh năm lúc nào cũng có lục bình, nhưng gần đến Tết
thì có nhiều hơn. Hai bên bờ kinh là nhà cửa đông đúc, chốc lát lại nghe tiếng
ghe xuồng chạy xành xạch. Người phương xa mới đến cho đó là tiếng ồn khó chịu,
nhưng đối với người sông nước chúng tôi thì đó chính là tuổi thơ khó phai nhòa
trong tâm khảm, là quê hương, là tình yêu, và là rất nhiều, rất nhiều nữa…
Con
kinh không phải tự nhiên có mà do chính những người dân Bình Thủy đã đào. Ngày
xưa, từ sông Hậu muốn qua miệt Năng Gù bằng xuồng phải chạy lên đầu cù lao Năng
Gù rồi đi xuống hoặc vòng ngược xuống đuôi cù lao rồi trở lên, đường khá xa và
tốn kém thời gian. Thấy được sự khó khăn đó, năm 1945 Ban Hội tề làng Bình Thủy
đã huy động sức dân đào con kinh nầy, vừa đào xong thì cuộc cách mạng mùa thu nổ
ra. Từ khi có con kinh, giao thông thuận tiện hơn, đoạn đường từ sông Hậu muốn
qua sông Năng Gù rút ngắn chỉ còn bốn cây số.
Có
kinh thì phải có cầu, vậy là cây cầu nối liền hai bờ kinh Đình ra đời. Kinh được
gọi là kinh Đình thì cầu cũng tạm kêu là cầu Đình cho gọn. Cứ vài năm người ta
lại sửa chữa chiếc cầu, có khi xây mới hoàn toàn. Kinh phí không ai tài trợ, chỉ
do những người trong làng đóng góp, ai có bao nhiêu thì góp bấy nhiêu, không có
tiền thì góp công. Hì hục mấy ngày trời cây cầu mới làm xong, khi đó bên cạnh
giọt mồ hôi của những người làm cầu còn có nụ cười mãn nguyện, hình như lúc đó
họ cảm nhận rằng mình vừa làm được một điều nhỏ bé mà rất thiêng liêng cho nơi
nhau rún. Vậy mới biết tình làng nghĩa xóm của người miền Tây.
Chúng
tôi là người nhà quê, không quen những chiếc cầu dài rộng nhưng lạnh lùng sắt
thép. Trái lại, chiếc cầu của chúng tôi không khang trang, không hiện đại, cũng
không phải do kỹ sư nào xây dựng, nhưng nó được làm từ chính những cái cây được
trồng trong làng, được bàn tay của những con người yêu quê hương bàu gọt. Chiếc
cầu đó làm sao không ấm áp tình người?
Cứ
mỗi mùa mưa, vào những buổi chiều có gió lớn, tụi con nít thường lượm những
bông sao bên những hàng cây sao gần đình làng rồi đứng trên cầu thả chúng xuống
dòng kinh. Những cánh sao buông mình trong gió, xoay tít, xoay mãi, xoay mãi giữa
đời thường nhưng chưa biết đi về đâu, rồi nhẹ nhàng rụng xuống mặt nước. Hình ảnh
bông sao gợi lên một kiếp nhơn sanh bao phen lăn lộn rồi lặng lẽ về với đất, và
gợi lên hình ảnh những con người Bình Thủy đi trăm phương cũng luôn trông ngóng
chốn quê nhà.
Con
kinh đối với riêng tôi và bao người, còn biết bao kỷ niệm mà không thể nào kể hết
được.
Vậy
mà sắp tới đây chánh quyền địa phương quyết định lắp kinh Đình, thay vào chỗ đó
là một con đường lớn. Tôi sắp phải chia tay với con kinh đã từng bảy mươi năm đảm
nhiệm sứ mạng làm thông thương hai bên cù lao và mười mấy năm làm thiên đường
tuổi thơ của lũ trẻ chúng tôi.
Dĩ nhiên, lắp kinh Đình thì giao thông đường thủy giữa sông Hậu
và sông Năng Gù sẽ không còn thuận lợi, nhưng tôi buồn vì chuyện đó thì ít, mà
lại buồn vì một chuyện khác nhiều hơn. Quả
thật con kinh có giá trị về mặt giao thông, nhưng ít ai biết rằng đối với
những người con nơi đây thì nó còn có giá trị về mặt văn hóa lịch sử. Chính ông
cha họ đã đào con kinh nầy, đã sống chết với con kinh nầy, biết bao người đã gắn
bó cả cuộc đời mình với dòng kinh. Kinh Đình là quê hương của gần hai mươi ngàn
người Bình Thủy. Nhưng tất cả đã hết rồi…
Sẽ
hụt hẫng thế nào nếu một ngày nào đó đi ngang qua con đường quen thuộc chợt ta
nhớ rằng con kinh ngày cũ đã không còn? Sẽ trống trải thế nào nếu một người
Bình Thủy xa quê trở về nơi nhau rún của mình mà mọi thứ đã đổi thay, không còn
được thấy dòng kinh thơ ấu? Chúng ta sẽ nói thế nào với thế hệ mai sau về một
con kinh quan trọng từng tồn tại ở đây, trong khi trên thực tế nó đã mất dấu? Một
ngày nào đó băng xuồng qua sông Hậu, sẽ buồn thế nào khi chợt nhớ ra rằng kinh
Đình đã không thể tiếp tục làm con đường tắt đưa người qua sông?
Và
rồi không chỉ kinh Đình Bình Thủy mà biết bao dòng kinh khác, trong tương lai
có còn được xem là biểu tượng văn hóa của những cù lao sông nước miền Tây?
Một
ngày nào đó, khi con kinh không còn nữa, với nắm bông sao trên tay, tôi biết thả
chúng về đâu bây giờ?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét