Có lẽ Trần Thế Vinh là cái tên không còn xa lạ đối với những người yêu thơ tỉnh An Giang và đồng bằng Sông Cửu Long. Cầm bút từ những năm 1980, đến năm 2010, anh đã xuất bản được sáu tập thơ. Tôi chỉ biết và đọc Trần Thế Vinh trong vài năm gần đây, nhưng đã nhiều lần “bị” thơ anh làm rung động. Chất dân dã là yếu tố đầu tiên phải kể đến khi nói về thơ Trần Thế Vinh. Thơ anh chủ yếu viết theo lối truyền thống, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp những sự phá cách tự do đến “hào phóng”, nhưng vẫn giữ một lề lối rất “chân quê” mà không chạy theo thời thượng. Chất dân dã luôn được lồng vào từng tứ thơ, xuyên suốt chiều dài và chiều sâu của thơ Trần Thế Vinh.
Năm 2010, nhà thơ Trần Thế Vinh cho
ra đời thi phẩm Nghiệm & Khổ cuối một
vần thơ, do Nhà xuất bản Phương Đông và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật An
Giang xuất bản. Theo thiển ý của người viết bài nầy, Nghiệm & Khổ cuối một vần thơ là sự đúc kết chặng đường khá dài
của Trần Thế Vinh qua hơn ba mươi năm cầm bút, một đợt “nghỉ giải lao” mà theo
tác giả là để: “Chiêm nghiệm mình và
lãng đãng với thơ ca” (Thơ trong
đêm chờ sáng). Quả thật những bài thơ trong tập đúng như cái tên mà anh đã
đặt: Nghiệm. Xuyên suốt tập thơ, người đọc có cơ hội bắt gặp cái “nghiệm” của nhà
thơ về cuộc đời, về tình yêu, về những mâu thuẫn đời thường luôn thường trực
bên chúng ta…
Tập thơ được chia làm hai phần, phần
một là Nghiệm, phần hai là Và khổ chót một vần thơ. Ở phần đầu, nhà
thơ tập trung vào những chiêm nghiệm rất đời thường, về cuộc sống, về đường
thơ, về những người nông dân quê nhà, về cái tôi bản ngã, về sự già nua của con
người trước tạo hóa… Ở phần sau, tác giả chủ yếu viết về những hình ảnh của quê
hương, đâu đó chúng ta sẽ thoáng bắt gặp dòng Cửu Long và dãy Thất Sơn hòa nhịp
cùng nhau trong thơ Trần Thế Vinh.
Nếu như mở đầu tập thơ, Trần Thế Vinh
đã viết:
“Khoác áo nhà thơ
Thi nhân là hành giả bày mâm khẩu nghiệp
Nhóm lên ngọn lửa cảm xúc
Như ánh lân tinh
Tan vào mây gió xanh tươi, vàng đục…”
(Nghiệm)
Thì 37 bài thơ trong tập chính là 37
ánh lân tinh, nhiều màu sắc nhưng vẫn mang một điểm chung, đó là quy về chữ
“nghiệm”. Mặc dầu đôi lúc, người thơ bất lực với đời thơ và tự an ủi mình: “Bản thảo trắng / Qua đêm. Ta in lên trời /
Như mây như gió, tìm nơi ta về…” (Bản
thảo trắng), cứ tưởng chừng nó sẽ: “Tan
vào mây gió xanh tươi, vàng đục…” nhưng không, nó vẫn: “Âm ỉ cháy / Giữa lòng minh tâm vô lượng”, để
rồi tác giả đã nhận ra rõ về đời thơ hay chính là đời mình: “Vạn biến vào cõi niết bàn còn lắm bi, ai…” (Nghiệm).
Với quê nhà, Trần Thế Vinh đã hết sức
sâu sắc khi viết về những người nông dân thân thuộc. Anh không đề cập nhiều đến
những vất vả của họ, mà chú trọng khắc họa vẻ đẹp tâm hồn hào phóng của người
Nam Bộ. Độc giả sẽ bắt gặp hình ảnh người nông dân ra đồng bị đứt một ngón
chân, nhưng không sao, bởi vì: “Đâu
phải mỗi bình minh không có nỗi buồn số phận / Móng chân tưa mép hôm qua còn chín dấu / Mỗi mùa…” Đối với họ, cấy cày mới là
chuyện quan trọng, mất một ngón chân chẳng là gì cả:
“Nói chuyện này, ông bảo rằng xưa…
Khi đất ngày nay đã hai, ba mùa trĩu hạt
Việc cấy cày cũng khác
Kể làm gì
Chuyện mất mát một ngón chân!…”
(Vẽ
một bàn chân)
Vùng đất Bảy Núi quê hương được nhà
thơ dành nhiều cảm xúc nhứt. Mỗi ngọn núi là mỗi miền đất hứa, mỗi khe đá là
mỗi dấu tích quê, núi và anh hội ngộ như duyên phận. Khi viết về Bảy Núi, anh
đã cảm nhận:
“Đá thở
Từ nhịp tim lòng
Ta chim về núi ngó trông lại
mình
Bìm bịp gọi tiếng thất tình
Gió trời trở ngọn mưa in. Trái mùa…”
(Thất
Sơn)
Đặc biệt, núi Dài - nơi nhà thơ sanh
ra và lớn lên, gia đình anh như đã đồng hành cùng ngọn núi: “Ba mươi năm trôi qua / Ba mươi ngọt đắng
riêng mình / Núi và tôi bấy nhiêu lần chia tay, gặp gỡ.” Để rồi miền đất
hứa ấy được tác giả cất giữ trong tâm hồn: “Mỗi lần đi / Và lần về. Tôi như người mang nợ / Trước cây cỏ, núi rừng,
hang động, suối khe...” (Núi Dài
và tôi).
Hình ảnh ngày Thanh minh trên vùng
núi đồi Tà Pạ cũng đi vào thơ Trần Thế Vinh, để cuối cùng vẫn là sự chiêm
nghiệm rất độc đáo mà gần gũi. Cứ ngỡ, đó chỉ là chép người chép việc, nhưng
thực tế có sự nhìn nhận bằng con mắt trải đời, thậm chí “xem thường” đời, lối
suy tư như “đùa cợt” nhưng đầy sâu sắc:
“Tà Pạ thanh minh. Rực màu
Phố vui - Như thể chết sao mà buồn…
Rượu thịt - Nhang khói âm dương
Cùng say một bữa thế thường rồi thôi!”
(Một
ngày trên núi cõi âm)
Với tình yêu, tác giả Nghiệm & Khổ cuối một vần thơ ghi
lại cảm xúc của người đợi chờ và thất vọng: “Anh quen nếm đắng cay / Không giữ kịp một hột để muối lại tâm hồn / Nêm
vào bài thơ tình sau cuối” (Trong
một phút và bài thơ sáu khổ). Đôi lúc lại là sự tinh nghịch đáng yêu:
“Dọc đường
Ý tại tình cờ
Phải chi con gái bây giờ cài trâm
Chiều buồn ngồi nhớ xa xăm
Ta làm thằng ngốc, chuốt trâm tặng nàng!”
(Dọc
đường thơ)
Để rồi đôi lúc nhìn lại, thấy mình
thật sự đã già trước trò đùa của con tim, góc nhìn của nhà thơ đi từ cái xa xôi
rộng lớn đến cái gần gũi bé nhỏ bên cạnh con người: “Ngọn gió cũ, qua đêm / Luồng vào khe cửa, thốc rối tàn tro thời gian /
Ta nghe buốt tim / Từ sợi tóc mới mọc / Bạc trắng” (Bài thơ tình số 15). Hoặc là: “Khắc vào cây cổ thụ - Ta / Hình như dấu chấm, ngã qua xế chiều!”
(Về ở với rừng).
Lắm khi, đó là hy vọng, dù chỉ mong
manh: “Xuân về. Xuân về… / Ta cám ơn
em / Đã mấy mươi năm tiệc chưa tàn cuộc / Ly rượu tình mãi mãi còn xuân”
(Xuân tái sinh). Cuộc vui nào rồi
cũng phải tàn, nhưng đối với nhà thơ, cuộc vui vẫn còn đọng lại nơi sâu thẳm
tâm hồn, khi con người chưa tắt hy vọng thì “ly rượu tình mãi mãi còn xuân”.
Với hình ảnh mùa nước nổi, Trần Thế
Vinh hướng sự suy tưởng về thân phận con người. Trong bài thơ Cánh đồng trắng, tác giả khắc họa tinh
tế cả thiên nhiên lẫn con người giữa mùa nước nổi, để nêu bật tính “không chịu
khuất” của vạn vật trước trò đùa của tạo hóa, để gửi sự tin tưởng chắc nịch của
mình vào vùng đất: “Cánh cò mò đêm về
đoàn viên sự sống”, “Ngọn bông
súng trồi đầu thả nước”, “Thả
những miếng mồi mưu sinh”… Có khi là hình ảnh người con gái đối chọi với
thiên nhiên khắc nghiệt, với cuộc đời lắm những truân chuyên:
“Lao xao đồng trắng bóng thuyền
Em lo kê lại mái hiên đời mình
Lụt tràn đỏ vạt bình minh
Chia hai dòng nước
Theo tình có, không”
(Mùa
lụt lao xao)
Cuộc sống của xứ đồng bưng ăn sâu vào
tiềm thức của người con xứ núi, khiến nhà thơ đã đôi lần xao xuyền. Bằng những
hình ảnh rất đẹp và nhẹ nhàng, không biết do cố tình hay vô ý trong sự sắp đặt
ngôn từ mà anh đã hết sức tinh tế khi viết những câu thơ:
“Ở Thanh Điền viên, chiều vơi
vơi nắng ngày
Bảng lảng khói - từ bếp lửa bập bùng chái bếp
Hẹn mai hay mốt... khi bão lòng thấm mệt
Gọi cá điêu hồng lên nhả bóng trăng khuya!”
(Thơ
viết ở Thanh Điền viên)
Đến những vùng đất xa lạ nhưng dào
dạt nghĩa tình, xúc cảm đâu đó lại trào lên. Mỗi cuộc tương ngộ là một lần thắp
lửa ủ ấm tâm hồn, để rồi sau đó lại phải chia xa. Hợp tan vốn là chuyện tất
yếu, biết vậy nhưng tác giả vẫn cảm thấy nghẹn lòng:
“Thôi về nhé - Hỡi chiều qua ta
đến
Sẽ dò tìm theo dấu cũ ta quen
Sẽ hẹn, như lần đầu không hẹn
Miệt đồng bưng ta nén giọt thơ buồn”
(Chiều
ở Si Ma Cai)
Tuy vậy dù có đi đâu, nhà thơ vẫn
luôn đau đáu về quê nhà, nơi có những cánh đồng hòa cùng ngọn khói bay dài theo
năm tháng:
“Đường trơn thác đổ, mây giăng
giăng
Tây Bắc. Giang hồ mới nửa đêm trăng
Chưa hết canh hai nhớ ơi là nhớ
Dạt khói đồng bằng, rơm rạ mùa riêng...”
(Tản
mạn dọc đường Tây Bắc)
Kết thúc tập thơ vẫn là sự chiêm
nghiệm, và lần nầy là tình yêu. Có lắm lúc, con người không hiểu nổi và không
cưỡng lại được những bất cập trong cõi mình. Trần Thế Vinh cũng thế, đã thấy
trăng, đã đuổi theo trăng, đã đùa giỡn với trăng, nhưng vẫn không thể chạm đến
được.
“Em
Quá khứ đi về, như một dấu chân riêng
Lần theo đó
Giữa canh mưa, trú mình làm nơi chốn
Có một lần say
Ta ngửa nghiêng, lẫn lộn
Trăng hay em, thao thức suốt đêm dài...”
(Theo
trăng)
Khép lại tập thơ, có thể thấy Trần
Thế Vinh “lắc léo” dẫn dụ người đọc đến những ý tưởng tưởng chừng như chẳng có
gì đặc biệt, nhưng lại được diễn đạt một cách triết lý. Anh khá thành công ở
lục bát, sự ngắt nhịp khéo léo đã tạo nhạc tính cho mỗi bài lục bát. Có thể tạm
nhận định như đã nói ở phần đầu, Nghiệm
& Khổ cuối một vần thơ là một đợt “nghỉ giải lao” để Trần Thế Vinh tự
“nghiệm” lại chặng đường thơ - đường đời của mình. Qua tập thơ, có lẽ cái
“nghiệm” của nhà thơ sẽ khiến nhiều người đọc phải suy gẫm.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tập san Văn nghệ Tri Tôn, 2012)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét