Vậy là chồng chị Tư chết thiệt rồi. Nghe đâu chết vì ăn nhầm mấy cái nấm độc gì đó. Cũng chưa biết rõ nữa. Nhưng biết chắc là nhà chị không lo nổi đám ma. “Thôi thì hàng xóm người góp một ít, mua cho anh Tư cái hòm coi cho được.” “Ờ… Hay là mình xin tiền mấy ông Hội Chữ thập đỏ hay quyên tiền chỗ mấy doanh nghiệp ngoài chợ giùm chị Tư, coi ra cũng được một mớ à!”… Những người hàng xóm đang ngồi bàn tán ở quán cà phê không xa nhà chị Tư, mắt không rời ngôi nhà. Lúc nầy, thi thể anh Tư vẫn chưa được chở về.
Nửa tiếng sau, chiếc xe cấp cứu của
Hội Chữ thập đỏ đưa anh Tư về nhà trong tiếng hú hú ghê rợn. Anh nằm thanh thản
trên băng ca, mặt còn ngước lên nền trời trong vắt. Trên cái mặt xanh tái ấy
nổi lên những đốm đỏ đỏ đã nhạt. Mắt anh không nhắm nghiền mà hơi hé ra. Những
mụ hàng xóm khẽ bàn tán: “Chết không nhắm mắt!” “Phải rồi, tự dưng ăn bậy rồi
chết, tới chết mà cũng không biết mình chết vì cái gì thì làm sao nhắm mắt được.”
Người cãi lại: “Bậy, hi hí ra thôi chứ không nhắm hồi nào.”
Vài ba người đàn ông mặt nhớn nhác
vội vã chạy đến khiêng băng ca vào nhà, vội vã đặt xác anh Tư xuống chiếc
giường đã được chuẩn bị sẵn. Chị Tư chạy đến ôm ghì lấy chồng, giật giật. Chị
khóc rất lớn, vùi mặt vào cái lồng ngực rắn rỏi đang lạnh ngắt kia. Vài người
thấy chị cứ ôm xác chồng sợ anh đau đớn nên gỡ tay chị ra, nói mấy lời an ủi:
“Để anh ấy yên nghỉ chị à!” Một lúc khá lâu sau, chỉ khi thật sự bình tâm lại
chị mới vội vàng lo việc lau mình, thay đồ cho anh. Tấm mền mỏng được kéo lên,
đắp ngang người anh Tư.
“Chị mong cho chồng mình đỡ phải chịu
cảnh lạnh lùng nơi chốn âm ty chăng?” “Mà âm ty hay thiên đàng, cũng chưa ai
biết được?” Thôi thì cứ như anh bạn kế bên: “Đừng nói ba xàm nữa cha nội!”
Trong nhà, mọi việc vẫn diễn ra một cách lặng lẽ, u uất.
Hàng xóm không nỡ nhìn
vào mặt đứa con còn bé xíu của anh. Ngơ ngác. Sợ hãi. Nó không biết người ta
đang làm gì cha nó. Cha nó ngủ và người ta đến chọc cho thức, có lẽ chỉ vậy! Bà
Chín mẹ của chị Tư nãy giờ không nói nhưng mắt đã rơm rớm. Cái chết của con rể
quá bất ngờ với bà. Tiếng sấm chớp rền vang ở một nơi nào đó xa xôi lắm đang
đánh ầm vào đầu bà.
Tiếng sấm ở đâu? Nơi xa
xôi nào? Bà cũng không biết. Trời hôm nay rất đẹp, không có mưa giông, nhưng
trong đầu bà lại nghe rõ mồn một những thứ thanh âm đổ nhào đó. Bà quỵ xuống
giữa đám đông, cái đầu bạc phếch gục xuống chừng như sắp ngất. Nhưng bà không
ngất. Hai hàng nước mắt lúc nầy đã chảy dài, đánh độp xuống rồi ngấm vào đất.
Cả những giọt già nua ít khi xuất hiện và lần nầy chỉ dành cho anh Tư, nhưng
chúng cũng có số phận như anh: âm thầm, bất chợt và lặng lẽ kết thúc. Đến khi
chị Tư choàng lên đầu bé Ngọc tấm khăn sô trắng, bà Chín mới đứng dậy, ôm chầm
lấy nó, nấc lên nghẹn ngào. Tội nghiệp, con nhỏ mới bốn tuổi.
Cái sân không rộng mấy trước nhà chị
Tư ngày càng đông người. Hàng xóm ở gần, ở xa đến viếng anh, tiễn một người
quen về chốn lạ. Ông Ba già chuyên tụng kinh cầu siêu cho các đám ma nay đã sắp
bước sang tuổi bẩy mươi còn lội bộ hơn cây số xuống đây để tụng kinh cho anh.
Ông nói: “Tại tao thương nó, nghèo mà biết chịu khó, cũng tội. Mà, cái số!”
Xung quanh chỉ có tiếng khóc và vài câu rất nhỏ lọt ra từ miệng của những người
hàng xóm đến phụ giúp trong đám. Tiếng chuông mõ vẫn đều đều. Phía ngoài xa
kia, những con sóng cứ đánh ì ầm vào bờ đất ven sông, chừng như cái bờ đất nhỏ
ấy sẽ sụp xuống và trôi theo con sóng bất cứ lúc nào.
Anh chị Tư dọn đến xóm nầy chừng vài
năm nay. Sau khi cưới nhau không bao lâu, hai vợ chồng cùng người mẹ vợ rời
quê, dắt díu nhau đến xứ nầy làm ăn. Cái xứ mà đến tên nghe cũng lạ: Sóc Chét.
Từ trước đến giờ chị Tư chưa bao giờ nghe nói về nó chứ đừng nói là nghĩ đến
một ngày nào mình sẽ đến nơi nầy. Nơi đó ra sao? Cả anh chị đều không biết.
Vậy mà cả gia đình đã gắn bó một
khoảng thời gian khá dài trên mảnh đất nầy. Để rồi hôm nay, chính mảnh đất nầy
lại tiễn anh vào lòng nó. Tám năm cho một cuộc sống chật vật. Tám năm cho cái
nhà nhỏ lụp xụp, hay nói đúng hơn là cái chòi lá, và một đứa con. Tám năm cho
một chữ nghèo. Dường như, anh chị Tư là gia đình nghèo nhứt xóm Sóc Chét nầy.
Mà, nghèo thật! Đến cọng rau, con cá là thứ dễ kiếm ở vùng mênh mông trời nước
nầy, vậy mà đối với gia đình anh cũng là chuyện khó. Chồng phụ hồ, vợ cắt cỏ
mướn, nhà còn một mẹ già và đứa con nhỏ, không có tài sản gì hết. Đó là tất cả
những gì người ta biết về anh.
Ai ai cũng dụi mắt liên tục. Không
phải cay vì khói hương tràn ngập khắp căn nhà lá ọp ẹp mà đắng lòng cho chị Tư
cùng người mẹ già và đứa con xấu số. Bốn giờ chiều, người ta đưa linh cữu anh
về với đất. Cũng lặng lẽ như cái ngày anh đến đây. Sau khi mọi việc xong xuôi,
hàng xóm còn nán lại chia buồn với gia đình một lát rồi nhà ai nấy về. Buổi tối
đó, căn nhà nhỏ của chị vốn đã ảm đạm nầy nay lại còn ảm đạm hơn. Ánh sáng đỏ
le lói phát ra từ cái đèn dầu nhỏ xíu trên bàn thờ anh Tư. Con Ngọc cứ khóc
riết. Nó không biết gì, nhưng có lẽ đông người quá, ngột ngạt quá làm nó sợ. Mà
không chừng, nó thấy mẹ và bà ngoại nó khóc nên khóc theo cũng nên?
Vậy là lại hết một kiếp người…
* * *
Xong chuyện tuần thất cho anh Tư cũng
hơn hai tháng. Lúc nầy, gia đình chị Tư càng túng quẫn hơn. Tuy hàng xóm có
quyên góp được chút tiền, Hội Chữ thập đỏ cũng cho được một ít, nhưng có thấm
vào đâu. Đã mấy ngày rồi cả nhà chỉ húp cháo với nước mắm. Có bữa nào đổi món
thì cũng chỉ được ăn cơm với mớ rau bình bát, rau dền, đọt nhãn lồng… hái ngoài
sau hè. “Tội nghiệp má, già rồi, cứ ăn vầy hoài sao chịu nổi.” Chị nghĩ mà
thương cho cái thân hèn mọn của mình. Giờ đây, hình như chị nhận ra rằng tim
mình còn đập, máu vẫn còn chảy, nhưng lòng mình thì đã chết tự bao giờ rồi.
Bà Chín đang chiên cá ngoài sau. Bữa
nay anh Thân bên hàng xóm đem qua cho mấy con cá, cũng đỡ. Nhờ anh Tư lúc còn
sống có tình có nghĩa với xóm giếng nên bây giờ họ cũng sẵn tay giúp chị trong
lúc khó khăn nầy.
Chị đứng nép bên vách, khẽ nhìn người
mẹ già của mình, trong đầu cứ cuộn lên biết bao suy nghĩ. Tóc má bạc nhiều vậy
hồi nào vậy trời? Mới ngày nào dọn đến đây, bà chỉ sáu mươi, tóc mới bạc lâm
râm vài sợi, vậy mà bây giờ đã trắng phếu. Nhìn trên lưng bà Chín, chị thấy áo
của mẹ mình đã thâm kim, những đường chỉ xổ ra nhiều rồi. Chị ngớ người ra. Ừ
thì, trước giờ má chỉ có vài bộ bà ba, chị có sắm sửa được gì thêm đâu. Mặt má
cũng nhăn nhiều rồi, thỉnh thoảng, gương mặt già nua ấy lại run run lên, thật
nhẹ. Thường ngày chị không để ý, mà có thời gian đâu, giờ nhìn lại… Má mình già
rồi, má cần cái vui - nhỏ thôi - đủ để bà sống những ngày cuối cùng nầy. Mà,
con cái có làm được đâu? Chuyện cơm áo gạo tiền cuốn chị vào cái vòng lẩn quẩn,
tự dưng quên bẵng đi những điều giản dị mà bình an nhứt đang ở cạnh mình.
Thì, má chị đó!
Tiếng xèo xèo từ cái chảo dầu vẫn cứ
lặp đi lặp lại trong gian nhà trống.
Bên kia, bà mẹ già cũng đang suy nghĩ
lung lắm. Tội nghiệp con nhỏ Ngọc, mới mấy tuổi đầu đã mang cái tiếng mồ côi.
“Mồ côi tội lắm ai ơi!” Mà, cũng tội nghiệp má con Ngọc, chồng chết, nó phải
oằn lưng lo cho hai miệng ăn. Lo cho con nó thì phải rồi, mà dè lại còn lo cho
cái bà già sống bám nầy, rồi tiền đâu nó lo cái bữa ăn, mai mốt tiền đâu cho
con nhỏ đi học. Bà Chín nghĩ mình phải giảm phần ăn lại cho đỡ tiền gạo, rồi ít
tắm giặt cho đỡ tiền xà bông, rồi phải… À, hay là kiếm việc làm? Làm cỏ mướn,
giặt đồ mướn, đổ rác… chuyện gì cũng làm được hết. Nhưng mà, đi làm rồi má con
Ngọc cũng đi làm, vậy ai lo cho con nhỏ? Những dự định ấy cứ quẩn quanh trong
tâm trí bà.
Nắng chiều chiếu thẳng về phía hai mẹ
con bà Chín, cái bóng của hai người càng mờ mờ và dài hơn như một khối đen nặng
oằn đang đè lên mái nhà xiêu vẹo ở cái xóm Sóc Chét nầy. Phía trước nhà, thỉnh
thoảng có tiếng gió chao mình, lượn lờ, lèn vào mọi ngõ ngách của những lùm
cây. Hàng cây trơ trọi thỉnh thoảng lại rơi thêm một vài chiếc lá vàng, xào xạc,
nghe khô khốc.
Thật lâu sau, khi nướng xong mấy con
khô, bà Chín quay lại mới thấy chị Tư đã đứng nép bên vách tự hồi nào. “Ủa, con
đứng đây hồi nào vậy?” Hai má con nhìn nhau, buồn buồn. Hình như ai cũng muốn
khóc mà khóc không được, không ai muốn đè nén bất cứ cảm xúc nào trong lúc nầy
mà lòng thì bảo phải đè nén lại. Chi mà khổ vậy trời?
Chị Tư bỏ ra cái chõng chỗ con Ngọc
đang nằm ngủ, ý nghĩ phải kiếm một việc gì đó để làm đang dần manh nha trong
đầu. “Cứ làm cỏ mướn lay lắt qua ngày vầy sao được? Hay là đi thành phố tìm
việc?” Cái ý định liều lĩnh đó làm lóe sáng lên trong đầu chị một tia hy vọng.
“Nhưng mình phải bỏ má, bỏ con Ngọc sao?” “Mà cứ ở đây như vầy hoài làm sao đủ sống?”
Chị Tư nghe người nóng bừng, tất cả suy nghĩ của chị như cứ chờ dịp vỡ tung ra
để khỏi phải phân vân chuyện đi hay ở.
Nơi nầy, tám năm trước cả nhà chị đã
khăn gói đến đây, chỉ mong tìm được một chốn náo thân, làm được chút tiền lo
cho con nhỏ. Tám năm trời sống ở đây, mỗi ngày mấy lượt đi vòng quanh cái xứ cù
lao nầy, đến nỗi gần như nhà nào cũng quen thuộc, bà con lối xóm ai cũng biết
anh chị và cũng thương yêu. Vì anh chị nghèo. Mỗi lần nhận được sự đùm bọc,
quan tâm từ xóm giềng, chị thường cười, nói nửa đùa nửa thật: “Xem ra, nghèo
cũng là cái phước!”
Vậy mà anh Tư đã đi, đi về một nơi xa
xôi nào đó, để lại ba người phụ nữ bơ vơ giữa cái mênh mông hiu quạnh của chữ
nghèo. Rồi số phận họ sẽ đi về đâu? “Nghèo” đối với họ giờ đây chỉ là sự căm
thù, sự tuyệt vọng tột cùng trước trớ trêu của cuộc đời. Còn gì đâu… Dường như
chị nghe đất dưới chân mình đang run lên từng hồi, như cố níu kéo, cố cản ngăn
một bóng hình đang dần mờ nhạt. Chị tự dưng thấy nhớ về cái dáng hình của mảnh
đất nầy, mặc dù chị không ở đâu xa.
“Thôi thì đã lâm vào cảnh nầy, đành
bỏ má, bỏ con, tha phương cầu thực, mong có thể kiếm chút tiền, gởi về cho má
với con Ngọc. Dù sao trời cũng không phụ lòng người, tận nhân lực mới tri ra
thiên mệnh mà.” Tự an ủi mình bằng một câu nói của người xưa, chị nghĩ mình
phải đi. Nhưng mà, cũng còn nhiều do dự lắm.
* * *
Chị Tư đến vặn cái đèn dầu lớn lên,
rồi ngồi xuống chỏng. Sau một đêm suy nghĩ, chị đã quyết định rồi, phải đi
thôi. Có lẽ trong thời gian nầy bà Chín và con Ngọc phải chịu cực một chút,
nhưng sau một tháng, làm có tiền rồi chị sẽ gửi về lo tiếp gia đình. “Tội
nghiệp, không có mình chắc má phải bương chải lắm để lo cho con Ngọc. Ráng nghe
má, ráng một thời gian thôi nhà mình sẽ đỡ khổ hơn một chút”, chị lẩm bẩm.
Chị nhìn về phía người mẹ già đang
ngồi ngoài sân, nhìn lâu lắm, như muốn tận hưởng tình cảm lan tỏa từ người đã
chăm bẵm cho mình từ lúc mình còn là một đứa trẻ đỏ hỏn cho tới khi trở thành
một cô gái đôi mươi, và bây giờ là quả phụ. Người đó, chị biết rằng ngày mai
mình sắp phải xa. Chị lại đến ôm chặt lấy con Ngọc, thương xót cho thân phận của
nó. Chị hôn lên má nó, lên trán nó, cứ ôm mãi không muốn rời.
Lát sau, bà Chín đem đến cho con Ngọc
một củ khoai, con nhỏ bụng đói cồn cào, chồm lấy củ khoai thật nhanh. Chị Tư
lườm nó:
“Ngọc! Để củ khoai cho ngoại ăn đi
con!”
Nó nhìn chị Tư rồi nhìn củ khoai, nói
nhỏ:
“Con đói bụng!”
Hai má con nhỏ phụng phịu đòi ăn, tay
thì vẫn ôm ghì củ khoai. Chị Tư phải la lớn:
“Ngọc! Má nói con để củ khoai cho
ngoại ăn sao con lì vậy? Đưa cho ngoại đi!”
Chị vỗ nhẹ vào mông nó rồi giựt lấy
củ khoai đưa cho bà Chín:
“Chắc má cũng đói rồi, má ăn đi! Con
Ngọc còn nhỏ nó chịu được mà, đói chút đâu có sao.”
Con Ngọc khóc ré lên, như muốn đòi
lại củ khoai mà nó cho là của mình, chị Tư tiếp tục đánh vào mông nó, nó lại
càng khóc lơn. Bà Chín cầm củ khoai mà mắt rơm rớm nhìn con Ngọc, bà đưa củ
khoai cho nó:
“Thôi, con ăn đi, ngoại không đói!”
Bà tự từ lột vỏ củ khoai đút cho cháu
mình, không để ý rằng chị Tư đã khóc tự lúc nào.
“Ngọc! Con… thương má hông?”
“Dạ thương!”
Cái miệng nhỏ nhỏ của con Ngọc chầm
chậm phát ra cái từ thiêng liêng nhứt, mà có đánh đổi cả đời vì từ nầy, chị
cũng chấp nhận. Chị nhìn nó, hai hàng nước mắt càng chảy mạnh hơn.
“Trời ơi!”
Buổi tối gió thốc, căn nhà của chị Tư
như cũng run run từng hồi. Chị cảm thấy lòng mình đau quặng. Cứ mỗi giờ qua đi
lại thấy dường như buổi tối nầy cứ rộng ra mãi theo. Đôi
mắt chị Tư cứ nhìn đăm đăm ra con đường đất cặp bờ sông, con đường ấy vài ba
hôm nữa thôi sẽ chỉ còn hai cái bóng một già một trẻ liêu xiêu trơ trọi giữa
xóm khổ nầy. Trên kia, trăng vẫn dát vàng vài mảnh mỏng manh trên nền trời.
Sáng hôm sau, trên con đường gió thổi
ngược, người ta thấy một người phụ nữ quen quen leo lên chiếc xe khách. Chiếc
xe lao đi rất nhanh, để lại một làn khói mờ mờ cứ quần trên mặt đường. Ra đi,
nhẹ nhàng như một vệt mây mỏng vừa bay qua.
Đó là một buổi sáng bình yên…
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét