Tôi rời cù lao Năng Gù từ năm 1954, đi học ở Châu Đốc, cho tới năm 1956, lên Sài Gòn học, lập nghiệp cho tới năm 1991, sau đó rời Việt Nam, thỉnh thoảng vài năm mới về lại Việt Nam đều có trở lại Năng Gù, Châu Đốc thăm cảnh cũ, người xưa.
Những năm học ở Châu Đốc, hàng tháng tôi đều trở về thăm nhà, những năm đi học ở Sài gòn mỗi năm ít ra là 3 lần về Năng Gù và Châu Đốc thăm nhà, vào các dịp lễ nghĩ như Tết, Hè, lễ Phục sinh, cho nên tôi có nhiều lần đi qua bến Bắc Năng Gù cũ và sau này bến Bắc Năng Gù mới, cả hai tôi đều chưa từng đi qua Bắc lần nào, xe chạy ngang qua, có khi ngừng lại cho khách lên xuống nên có dịp quan sát.
Trên con lộ 91 (Long Xuyên – Châu Đốc), xưa kia là đường Liên tỉnh lộ LT 10, bến Bắc cũ nằm ngay tại bến chợ Bình Mỹ, phía dưói bến Bắc mới, thủy trình nó chạy qua bên kia nằm gần hạ khẩu sông Vàm Nao, bến Bắc mới thủy trình bên kia là qua xã Bình Thạnh Đông, phía bên lộ 91 hai bến Bắc mới cũ, cách nhau không xa, nhưng phía bên kia, hai bến Bắc mới cũ cách rất xa, vì ngày nay ở bến Bắc mới nhìn từ bờ đi và đến có thể thấy rõ, còn ngày xưa ở bến Bắc cũ nhìn mút con mắt.
Ngày xưa, thật ra cũng không xưa lắm, khoảng 1947-1950, thuở xăng dầu khang hiếm, máy móc ít có, ở bến Bắc cũ có đò chèo từ đó sang Hòa Hảo và ngược lại, sau đó có thể khoảng 1950-1954 có đò máy cũng chạy với thủy trình đó.
Năm 1954, Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, dẹp Bình Xuyên trước, rồi dẹp lực lượng giáo phái, nên ngày 1-1-1956 mở chiến dịch Nguyễn Huệ do Đại tá Dương Văn Minh chỉ huy, Tướng Trần Văn Soái tức Năm Lửa ở Cái Vồn Cần Thơ lập chiến khu ở Đồng Tháp Mười chống chánh phủ, nhưng đến 17-2-1956 mang quân ra quy thuận và Tướng Lâm Thành Nguyên ở Cái Dầu Châu Đốc, sau vài ngày giao tranh đã quy hàng chánh phủ khoảng tháng 2 năm 1956, riêng Tướng Lê Quanh Vinh tức Ba Cụt vẫn không hợp tác.
Về sau ông Nguyễn Ngọc Thơ và Tướng Lê Quang Vinh họp ở Đồng Tháp Mười để thương thảo tìm một giải pháp, trên đường dự hội trở về mật khu ở Miền Tây, trong thời gian và khu vực được thỏa thuận bảo đảm an ninh cho cả hai bên dự hội nghị. Lê Quang Vinh bị một đơn vị Bảo An đóng tại cầu Chắc Cà Dao bắt ông ngày 13-4-1956. Ông bị giải về Cần Thơ, bị tòa Sơ Thẩm 11-6-1956, tòa Thượng Thẩm 25-6-1956 và Tòa án Quân sự 3-7-1956 xử án tử hình và đã bị hành quyết bằng máy chém Gouillotine, do Đội Phước thực hiện ngày 13-7-1956 tại nghĩa địa, đường Hòa Bình Cần Thơ.
Để trấn an dư luận, để chứng tỏ chánh phủ quan tâm với sự tự do tôn giáo, những ngày lễ lớn như Tết, Quốc Khánh, Ngô Đình Diệm mở những cuộc tiếp tân, mời các nhân sĩ thân hào tới dự ở Dinh Tổng Thống, thân sinh của giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, ông Huỳnh Công Bộ luôn luôn được mời tham dự. Mỗi khi đức ông Huỳnh Công Bộ đi dự, ông đi bằng xe nhà hiệu Dodge sơn màu vàng sẩm, đi từ tư gia đức ông ở làng Hòa Hảo lên Sàigòn, nên những người trong giáo phái Hòa Hảo đóng một chiếc Bắc để chở xe đức Ông từ bến đò bên Hòa Hảo sang bến đò tại chợ Bình Mỹ, từ đó tên Bắc Năng Gù được khai sanh, theo tôi do các anh lơ xe đường Long Xuyên Châu Đốc đặt tên như vậy để phân biệt với bến đò Năng Gù ngay tại chợ Bình Thủy cách bến Bắc này không quá 500 thước.
Chiếc Bắc đó, chỉ là chiếc ghe lớn đủ chở chiếc xe nhà, vận chuyển nó do chiếc đò máy chạy cặp bên hông, khi không có chở xe đức Ông thì chiếc Bắc nằm yên trên bến sông, còn chiếc đò máy chạy bình thường để chở khách.
Thuở đó đường LT 10 (Long Xuyên - Châu Đốc), chỉ có xe đò Long Xuyên – Châu Đốc mỗi ngày chừng 10 chuyến, Châu Đốc - Sàigòn chừng 2 chuyến mỗi ngày. Ở Hòa Hảo lúc đó chưa có xe hơi, xe Lam, chỉ có xe lôi đạp, và chắc chỉ có vài xe găn máy là mobilette, đường lộ không có trải nhựa, mưa xuống đường đất mềm, bám vào bánh xe khó chạy. Cho nên chiếc phà ấy chỉ chở xe đức Ông mà thôi, nếu phà ấy có chuyên chở xe hơi khác, thì sớm nhất phải từ thập niên 1970 trở đi mà thôi.
Ở bến đò bên Hòa Hảo, năm 1953 tôi có đi dự lễ 18 tháng 5 nên biết, tại đó có 2 con đò khác nhau, một con đò đưa người đi từ Hòa Hảo qua Bình Mỹ và ngược lại và một con đò đưa người đi từ Hòa Hảo sang cù lao Năng Gù và nguợc lại, con đò này cập bến cù lao Năng Gù ở bên phía sông Hậu. Ai muốn đi từ Năng Gù qua Bình Mỹ và ngược lại đã có con đò Năng Gù, như đã nói cách Bắc Năng Gù chỉ có vài trăm thước.
Tôi cho rằng tên Bắc Năng Gù là do các anh lơ xe đường Long Xuyên - Châu Đốc đặt tên để phân biệt với bến đò Năng Gù có người không tin, chuyện đã trên 50, 60 năm ai muốn tin thì tin, không tin không ai ép được, nhưng muốn kiểm chứng, có thể hỏi những người dân địa phưong tuổi từ 70 trở đi, chắc họ nhớ và biết rõ.
Theo sách Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: An Giang của tác giả Nguyễn Đình Đầu cho biết: "Bình Lâm thôn, ở hai xứ Rạch Cát, Rạch Chanh". Bình Lâm thôn, sau này Pháp đổi thành làng Bình Thủy, trong làng có 2 con rạch Rạch Cát và Rạch Chanh ngoài ra cũng còn mấy con rạch khác có tên nhưng ít thông dụng vì nó ngắn và nối liền vào Rạch Chanh. Rạch Cát thông ra đầu cù lao, nên lưu thông với sông Hậu Giang, phù sa chảy vào, nên có cát trong con rạch, vì thế có tên là Rạch Cát, còn Rạch Chanh là con rạch phát xuất từ trong cù lao với nhiều nhánh phụ cũng phát xuất từ trong cù lao, ngày xưa do đất đai chưa khai phá, nước bị phèn, vị chua nên gọi là Rạch Chanh, miền Nam nhiều nơi có rạch mang cùng tên là Rạch Chanh, nhiều người không rõ nguồn gốc, đặt câu hỏi trong vùng không thấy trồng chanh, sao lại có tên là Rạch Chanh, cỏ tranh có thể có ở vùng đất gò nhưng tranh người miền Nam không bao giờ phát âm ra Chanh.
Tên địa danh cù lao Năng Gù, có người căn cứ vào sách vở cho là do chữ Long Cù biến ra Năng Gù, tôi thì cứ cho Năng Gù là địa danh của người Khmer là Sneing-ku (Neng-gù: sừng trâu), địa danh đó như Mặc Cần Dưng, Chắc Cà Đao, tại cù lao Năng Gù không có Sóc người Khmer, nhưng làng Bình Mỹ, tại kinh đình Bình Mỹ bên kia sông Năng Gù ngày nay vẫn còn có Sóc người Khmer, tôi không rõ dân số nhiều ít là bao nhiêu nhưng có. Ở những nơi có Sóc người Khmer thì địa danh Khmer được lưu truyền theo âm tiếng Việt.
Sông Năng Gù, thật ra nó còn có tên là Xép Năng Gù, Xép là từ ngữ xưa, ngày nay ít ai dùng, trong từ điển của Huỳnh Tịnh Của có giải nghĩa từ Xép này là con sông nhỏ, người địa phương ở trên cù lao ở bên phía sông Hậu Giang, vẫn dùng từ Xép khi nói: “Đi qua bên Xép”. Cũng như người từ bên Xép đi qua bên kia thì nói: “Đi qua bên Hồ.”, thật ra trên cù lao, phía đó không có cái hồ nào cả, đến nay tôi vẫn không hiểu danh từ “hồ” ấy để chỉ cho cái chi, nhưng nói ra, ai cũng biết “hồ” là để chỉ cho phần đất cù lao chạy dọc theo bờ sông Hậu.
Cũng trong sách trên: “Bình Mỹ thôn, ở hai xứ Năng Gù, Trác Thượng Vật”. Tôi không hiểu Trác Thưọng Vật là địa danh nào, theo ông Trần Hoàng Vũ giải thích Trác Thượng Vật là bãi sình lầy ngập nước. Tôi nghĩ giải thích này đúng, là chạy dọc lộ 91 làng Bình Mỹ có một cánh đồng cò bay thẳng cánh, trong cánh đồng này đương nhiên sình lầy, như thế làng Bình Mỹ nằm giữa xép Năng Gù và Trác Thượng Vật (bãi sình lầy, đầm lầy). Như vậy, làng Bình Mỹ có cái giới hạn Xép Năng Gù, cho chúng ta thấy rõ Xép ấy được đặt tên theo tên cù lao Năng Gù, như Kinh Vĩnh Tế là con kinh mang tên của bà Châu Thị Vĩnh Tế là chánh thất của Thống soái Thoại Ngọc Hầu. Cho nên làng Bình Mỹ không có tên Năng Gù. Nguyên thủy chỉ có tên Cù lao Năng Gù và Xép Năng Gù, sau đó là nhà thờ Năng Gù.
Còn nhà thờ Năng Gù, là một nhà thờ lớn và quan trọng toàn tỉnh Long Xuyên cho nên năm 1920, nó được nâng lên là nhà thờ giáo xứ, cai quản các họ đạo: Chắc Cà Đao, Cần Xây, Ba Bần, Long Xuyên, Đồng Súc, Cái Dầu, Thị Đam.
Về lịch sử theo tài liệu về nhà thờ Năng Gù, do giáo dân đầu tiên là Jacob Lê Phước Ngãi, người gốc Trung Hoa, quê ở Đồng Nai, quan cựu trào nhà Nguyễn, lánh nạn cấm đạo Thiên chúa từ thời Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) Qua những sắc dụ cấm đạo ban hành vào những năm 1848, 1851, 1855, 1857, 1859 và nhất là sắc dụ năm 1861, nhà Nguyễn đã quyết tâm dẹp đạo Thiên chúa.
Chúng ta biết rằng miền Nam thuộc về chúa Nguyễn từ năm 1759, khi Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào (thị xã Vĩnh Long ngày nay), đặt ra 3 đạo là Đông Khẩu Đạo (Sa Đéc), Tân Châu Đạo (Tân Châu) và Châu Đốc Đạo (Châu Đốc)
Ông Dương Văn Hóa là người khai hoang lập ấp đầu tiên trên cù lao Năng Gù, qui tụ dân cư lập thành thôn xóm, được nhà cầm quyền đặt tên là Thôn Bình Lâm.
Theo như tài liệu trên Jacob Lê Phước Ngãi lánh nạn cấm đạo, như vậy ông và một số người khác phải ẩn lánh nơi vắng vẻ để cử hành các thánh lễ, theo tài liệu về Giáo xứ Năng Gù thì: Lúc ban đầu các bí tích được cử hành chui ở vùng Kinh Ông Quýt, sau đó tại Rạch Gộc. Nhà thờ đầu tiên cất sau núi Đức Mẹ bây giờ, có thể là trước năm 1859: trước bằng gỗ nền đất, mái lá; sau lợp ngói xây tường, lót gạch tàu, trải đệm, không bàn ghế, có lầu hát. Chuông có từ năm 1892. Theo tôi, nhà thờ được cất phải từ sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1863. Sớm nhất cũng phải vào thời gian 1870.
Nhà thờ có tên là Năng Gù, vì nhà thờ đó nằm trên ấp Bình An thuộc thôn Bình Lâm, mà thôn Bình Lâm nằm trên cù lao Năng Gù, địa danh Năng Gù được nhiều người biết hơn là thôn Bình Lâm. Còn vì sao ấp Bình An ở sát làng Bình Hòa (Mặc Cần Dưng) ở sát làng Bình Mỹ, tại sao ấp này không thuộc một trong hai làng đó mà thuộc thôn Bình Lâm nằm trên cù lao Năng Gù, cách nhau cái Xép (sông) Năng Gù. Chỉ có thể giải thích rằng, ngày xưa “đất rộng, ngưòi thưa”, ông Jacob Lê Phước Ngãi cùng một số ngưòi theo đạo muốn ở nơi vắng vẻ, ít người lui tới để hành đạo, cho nên sau khi khai phá, sang cù lao Năng Gù xin gia nhập làm dân của thôn Bình Lâm này, do vậy dân ở đây là dân của thôn Bình Lâm, đất của người dân Bình Lâm là đất của làng Bình Lâm, nên nó được mang tên ấp Bình An thuộc thôn Bình Lâm, sau này người Pháp đổi tên thôn Bình Lâm là làng Bình Thủy thuộc tổng Định Thành, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên gồm có bốn ấp: Bình Phú, Bình Thới, Bình Hòa và Bình An.
Vì sao làng Bình Thủy thuộc quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên, đến ngày 23-8-1979, xã Bình Thủy bị chia ra, các ấp trên cù lao Năng Gù thuộc huyện Châu Phú, còn ấp Bình An có nhà thờ Năng Gù nhập với ấp An Hòa của xã Bình Hòa thành xã An Hòa thuộc huyện Châu Thành, theo Quyết định số 181-CP ngày 25 tháng 4 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ.
Theo chỗ tôi biết, trong làng có Hương sư Lâm Văn Nguyện, ông có ba cô con gái, người con gái thứ hai mất sớm, người con gái thứ ba tên Lâm Thị Chuông, người con gái thứ tư tên Lâm Thị Hương và một người con nuôi, con trai, người Khmer tên Phách. Hương sư Nguyện nhà gia thế trong làng, thuở nhỏ Lâm Thị Chuông học thêu thùa, thêu những con thỏ ngậm củ cải, con nai vàng ngơ ngác bên suối, mắt những con vật ấy đặt mua từ Pháp gửi sang, Đình làng có bình phong đấp nổi, mặt trước hình như con rồng, mặt sau con cọp và nai, mắt cọp và nai vốn của Lâm Thị Chuông cho, chị này lớn lên lấy chồng là Chín Nghiệp, người ở làng Bình Long, hai gia đình môn đăng hộ đối.
Lâm Thị Chuông lấy chồng, về nhà chồng ở. Đến cách mạng mùa thu 1945, Chín Nghiệp theo cách mạng hoạt động, đến khi Pháp trở lại, Lâm Thị Chuông trở về nhà cha mẹ sinh sống, để tránh liên lụy. Nhưng vợ chồng vẫn thầm kín gặp nhau, nên vài ba năm, chị ta vẫn sinh con, hàng xóm biết nhưng chẳng ai tố cáo với chánh quyền sở tại.
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Chín Nghiệp hồi chánh, về sinh sống bên vợ một thời gian, rồi vào bưng hoạt động trở lại, có thể vào khoảng Tết Mậu Thân.
Lâm Thị Hương học trường tỉnh Long Xuyên, sau lập gia đình rồi định cư ở Sài Gòn, làm cô giáo Trường Tiểu học Bàn Cờ, cho đến sau 1975 chuyển về quê, làm cô giáo dạy ở trường làng, gần nhà.
Sau 1975, ba tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên gộp lại thành tỉnh Long Châu Hà, Chín Nghiệp là cán bộ của tỉnh Long Châu Hà, khi Long Xuyên – Châu Đốc xáp nhập thành tỉnh An Giang và đưa huyện lỵ Châu Phú từ Mỹ Đức về thị trấn Cái Dầu, tách cù lao Năng Gù từ huyện Châu Thành nhập vào huyện Châu Phú, có lẽ Chín Nghiệp có đóng góp vào việc cải tổ này, để xã Bình Long quê của anh và xã Bình Thủy quê của vợ cùng nằm trong huyện nhà Châu Phú. Đây là sự lý giải theo thiển nghĩ của tôi.
Chín Nghiệp có con trai trưởng tên Phúc tự Paul, khoảng tuổi Tân Tỵ, thuở nhỏ học trường làng, sau học trường tỉnh rồi lên Sàigòn học Trường Bưu Điện, tốt nghiệp ngạch Cán sự, bị đi Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, được biệt phái. Paul lấy vợ tên Liên Hoa người Vĩnh Long, cựu học sinh Gia Long, có bằng Dược sĩ, chồng về làm ở Ty Bưu Điện Long Xuyên, vợ có nhà thuốc Tây ở thị xã Long Xuyên, khoảng thập niên 1980 Paul mất, lúc đó tôi và nhà tôi về quê, nghe tin cả hai chúng tôi chồng bạn của chồng, vợ bạn của vợ. Paul vai cháu nên tôi đến nhà tưởng niệm thắp nén nhang, mẹ Paul giới thiệu Chín Nghiệp cho tôi: “Đây anh ba của em!”, lần đó tôi mới nhìn rõ Chín Nghiệp, thân hình cao ráo dáng vẻ người cách mạng có học thức, không như nhiều năm trước, đôi khi tôi thấy anh lom khom cuốc xới đất trước sân nhà, con người bất phùng thời trở thành nông dân.
Năng Gù trong tôi vẫn còn cánh đồng xanh ngát, mấy cái bông sen đỏ lẻ loi mọc ở ngọn Rạch Sen, mấy cây bằng lăng bông tím như bông lục bình trôi trên sông, ngôi trường làng mái đỏ, tường vôi trắng vọp lỡ, đều là những kỷ niệm êm đềm thơ ấu mỗi khi quay về thời dĩ vãng.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét