Năm ngoái về thăm nhà, khi đi từ chợ Cần Đăng về Năng Gù, đến ngã ba đường xuyên cánh đồng, tôi thấy bảng chỉ đường ghi “Cầu Kênh Quýt”. Khi xe chạy tới cầu, thuộc xã An Hòa - huyện Châu Thành - tỉnh An Giang có bảng ghi tên cầu là “Cầu Ông Quýt”.
Tôi là dân địa phương, thuộc làng Bình Thủy, tổng Định Thành, quận Châu Thành tỉnh Long Xuyên. Làng nầy có 4 ấp Bình Phú, Bình Thới, Bình Hòa và Bình An. Ba ấp trước nằm trên cù lao Năng Gù, bao bọc bởi sông Hậu Giang và xép Năng Gù (xép là phụ lưu của con sông lớn, nên nhỏ hơn sông, lớn hơn rạch). Ấp Bình An nằm trên đất liền, giáp với làng Bình Mỹ thuộc quận Châu Phú, tỉnh Châu Đốc, nơi hai làng giáp nhau có một cái ranh giới, gọi là ranh hạt vì đó là ranh giới của hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ.
Sau năm 1975, nhà cầm quyền chia lại ranh giới, chẳng hạn đem quận Thốt Nốt của Long Xuyên đưa về tỉnh Phong Dinh tức Cần Thơ. Làng Bình Thủy, lấy cù lao Năng Gù của quận Châu Thành - tỉnh Long Xuyên, sáp nhập vào huyện Châu Phú của tỉnh Châu Đốc cũ, còn ấp Bình An của làng Bình Thủy có nhà thờ Năng Gù, nhập với một phần đất của làng Bình Hòa, lập thành xã An Hòa thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Vậy thì theo người dân trong làng thường hay nói, chính danh là Kênh Ông Quýt, chớ không phải là Kênh Quýt.
Chạy quá đoạn nầy chừng 2 km, thuộc địa phận huyện Châu Phú có một cái cầu, bảng ghi “Cầu Thầy Phó Ký”. Bên tay phải của bảng nầy là xép Năng Gù, ngang qua sông là Trường Tiểu học A Bình Thủy, nhà tôi phía trên trường học, cách xa chừng 100 thước. Đi quá tấm bảng nầy hơn 100 thước, bên tay trái con lộ đá nầy, xưa có ngôi trường với 3 lớp học gồm: Cours Élémantaire, Cours Moyen và Cours Supérieur, chú ruột tôi làm Trưởng giáo, từ bên kia sông tôi theo chú qua bên nây sông học lớp vở lòng. Gần được một năm, vì thời cuộc trường đóng cửa, tôi mới học xong vần ngược. Cho nên tôi có hiểu biết về cái cầu nầy.
Cầu nầy thật ra trước kia nó là cái cống vuông khá lớn dài chừng 6 thước, ngang chừng 4 thước, sâu chừng 4 thước, mặt trên cho xe chạy có lề đường, có lan can đúc, hai bên hông là hai bức tường xi măng và ở dưới đáy cũng đúc xi măng, dưới nền dộng cừ tràm.
Vì chiều sâu của cầu không đủ sâu, nên mùa khô nước sông xuống thấp hơn đáy cầu, ghe xuồng không thể đi qua lại. Mùa nước nổi có khi gần ngập cầu, ghe xuồng cũng không qua lại được. Cầu nầy chủ yếu là xả nước phèn từ trong cánh đồng lúa mênh mông ra xép Năng Gù và đến mùa nước nổi, nước sông Hậu Giang tràn vào cánh đồng, rửa phèn ruộng lúa.
Tôi nhớ khoảng 1946 hay 1947, để cắt đứt đường giao thông Long Xuyên - Châu Đốc, ban đêm người ta mượn ghe của nhà tôi, đưa thanh niên qua sông đào con lộ sâu chừng 1 thước, dài chừng 3 thước, đất đá đổ xuống sông. Ban ngày xe Long Xuyên - Châu Đốc không thể chạy qua, nơi đó khách phải sang xe, thời đó xe đã chạy bằng than củi. Khi nào có xe nhà binh Pháp đi qua, lính Tây lại bắt dân tại địa phương gánh đất lấp lại. Thanh niên hai bên sông, bên nào đào đường cứ đào, bên nào lấp cứ lấp, vui vẻ phận sự ai nấy làm, cứ năm ba ngày làm một lần, cho đến khi nhà cầm quyền xây lô-cốt, cho lính trân giữ mới hết đào và lấp đường bên cạnh cầu.
Từ cái bảng nầy đi lui lại chừng 200 thước, trước 1970 là một khu dinh cơ đồ sộ, chiều dài cập theo lộ chừng 100 thước, có hàng rào sắt, cách xa nhau chừng 2 thước có cột trụ gạch xây tô, ốp mặt ngoài bằng gạch hoa nổi tráng men mua từ bên Pháp, dưới chân tường rào cũng xây tô cao chừng 1 thưóc, cũng ốp một hàng gạch hoa nối tráng men chạy dài theo tường rào, tường rào nầy có 4 cổng vào, 2 cổng ngoài cùng không mái che, hai cổng ở trong là hai cái lầu vọng nguyệt, có thang gỗ đi lên, mỗi lầu 4 mái lợp ngói đỏ, mỗi cạnh của lầu chừng chừng 4 thước. Tất cả các cổng đều có hai cánh bằng gỗ. Cặp theo hai bên tường rào nầy, mỗi bên có một tường rào cột xây, rào sắt nhưng không có ốp gạch hoa nổi tráng men. Có thể nói tường rào dinh cơ nầy còn đẹp hơn tường rào Dinh Độc Lập, chỉ thua cổng sắt mà thôi.
Cổng ở lầu vọng nguyệt phía thị xã Long Xuyên có khắc tên chủ nhân Phạm Phú Quý và dưới hàng tên đó, có ghi năm tôi không thể nhớ chính xác, hình như 1927, có lẽ đây là năm xây dựng dinh cơ nầy. Ông Phạm Phú Quý có làm chức Phó Cai tổng. Theo tổ chức thời Pháp thuộc, về hành chánh phân chia ra tỉnh, quận, tổng, làng. Đứng đầu tỉnh là Chánh Tham Biện, đứng đầu quận là Quận trưởng, đứng đầu tổng là Cai tổng, đứng đầu làng là Hương cả.
Do ông Phạm Phú Quý đào con kinh để xả nước phèn, dẫn nước ngọt vào đồng ruộng của ông, do đó ông phải xây cầu, nên ngày xưa dân chúng gọi là Cầu Thầy Phó, nếu ngày nay muốn thêm tên cho chính xác phải là Cầu Thầy Phó Quý, chớ không thể ghi là Cầu Thầy Phó Ký, vì trong vùng đó không có ai là thầy Phó Ký cả.
Khoảng năm 1970, để mở đường cho rộng rãi, con lộ LT10 (Liên Tỉnh 10) nằm sát tưòng rào dinh cơ Thầy Phó và xép Năng Gù. Phía xép xưa có trồng hàng dừa, đất mé sông đó bị lở, nên đường phải mở rộng về phía tường rào, do đó tường rào bị tháo dở, sau nầy bán cho một bệnh viện.
Từ Thị xã Long Xuyên đi về Châu Đốc, qua khỏi cầu Nguyễn Trung Trực sẽ đến một cây cầu đúc nhỏ, bảng ghi “Cầu Xếp Bà Lý”. Theo duy danh định nghĩa từ Xếp Bà Lý có nghĩa là xếp của bà Lý, còn nếu có một ông Lý là xếp, người ta sẽ gọi là ông xếp Lý, vợ ông ta sẽ được gọi là bà xếp Lý, vậy thì Xếp Bà Lý vô nghĩa. Thực ra, ở chỗ cái cầu ấy xưa có địa danh là xép Bà Lý, chữ xép tôi đã định nghĩa ở trên là xép Năng Gù, vậy cầu nầy phải ghi cho đúng là “Cầu Xép Bà Lý”.
Từ chợ Bình Hòa (Mặc Cần Dưng) đi vào trong Vàm Nha, cách chợ không xa có một có một cái nhà lầu, vào khoảng năm 1952 trở đi tôi có vài lần đi qua lại, nhà lầu đã bị đập phá rồi vì thời cuộc năm 1945. Chủ nhân của nhà lầu đó họ Từ tên Súc. Ông là người Hoa định cư từ lâu, có ruộng đất cò bay thẳng cánh, cạnh nhà ông có đào mương dẫn nước từ Rạch Mặc Cần Dưng vào ruộng, con lộ tẻ từ Long Xuyên - Tri Tôn chạy qua đất ông, nên phải bắt cầu qua con mương của ông, ngày nay có bảng ghi tên con cầu nầy là “Cầu Tư Súc”. Nếu muốn lấy tên nhân vật đặt cho tên cầu, đáng lý phải ghi là Cầu Từ Súc, chắc người ta nghĩ ông ta thứ Tư tên Súc nên đặt tên là Cầu Tư Súc?
Chắc còn nhiều cái sai sót đáng nói nữa, nhưng vì tôi chỉ đi qua mấy chỗ ấy thôi, thấy những sai lầm về tên tuổi người ta là sự phạm thượng, thiếu văn hóa. Đặt những địa danh sai lầm, chẳng những làm mất ý nghĩa mà còn làm sai nguồn gốc. Chẳng hạn như Kênh Ông Quýt, ghi là Kênh Quýt những người trẻ sau nầy sẽ nghĩ nơi đó có vườn quýt hay nơi đó có con cánh cam, cánh quýt nên mới lấy đặc điểm ấy mà đặt tên! Ai trách nhiệm viết những bảng sai lầm đó, nay biết rõ ngọn nguồn, nên sửa đổi, đừng để mai sau người ta phê phán: “Sao An Giang lại có nhiều lầm lẫn đến thế! Không có ai biết đính chánh sao?”. Xin nhắc lại, người viết bài nầy là dân Long Xuyên chánh cống, nên mới phải viết những gì mình được biết.
“Cái gì của Caesar hãy trả lại cho Caesar” (Thánh Kinh)
HUỲNH ÁI TÔNG
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét