Vương quốc Champa được thành lập năm 192, kéo dài từ
Mũi Hoành Sơn - sông Đinh cho đến Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ thế kỉ XI, qua các cuộc Nam tiến của Đại Việt, biên giới lui dần về
phương Nam rồi mất hẳn vào năm 1832, khi cuộc khởi nghĩa cuối cùng của Thak Wa bị
vua Minh Mạng dẹp tan.
Suốt
quá trình lịch sử ấy, người Cham lưu lạc qua nhiều vùng đất khác nhau, để tạo
thành cộng đồng riêng với những khác biệt nhất định về văn hóa và ngôn
ngữ. Giai đoạn 986-988, khi Lưu Kỳ Tông làm vua đất Champa, bộ phận Cham
chạy qua Hải Nam - Trung Quốc sinh sống. Năm 1044, nhà Lý bắt 5.000 tù
binh Cham ra Bắc; 25 năm sau, số lượng tù nhân Cham ra Bắc lên đến 50.000
người; họ lập thành các làng riêng và tồn tại thời gian khá dài.
Đến
thời Po Rome (1627-1651), một bộ phận lớn Cham vượt đại dương qua sống ở
Kelantan - Malaysia; sau này 1975, 5 vạn người Cham chạy trốn cuộc thảm sát của
Pôn Pốt qua Mã Lai sinh sống, và không có ý quay lại Campuchia (G. Moussay).
Thế
kỉ XVIII, người Cham chạy loạn qua Thái Lan, hiện thuộc khu Ban Khrua, Bangkok,
khoảng 5.000 người. Ở Campuchia, vào năm 1692, 5.000 gia đình Cham từ
Pangdurangga di cư qua, ở vùng đất tốt dọc sông Mekong, sau đó còn mấy đợt di
dân khác nữa. Hiện nay, ngoài 22 làng còn theo tôn giáo Bà-ni, tất cả đều là
Muslim. Cuối thế kỉ XX, người Cham ở Campuchia thay đổi họ tên thành Khmer
Islam.
Riêng
ở Việt Nam có gần 20 vạn người Cham sinh sống.
Bộ
phận Cham Hroi hình thành khi vào 1471, Lê Thánh Tông chiếm Đồ Bàn, người Cham
chạy lên vùng trung du Bình Định, Phú Yên, sống cộng cư với dân tộc Bana. Cộng
đồng Cham ở đây theo tín ngưỡng dân gian; dân số hiện nay trên dưới 30.000
người.
Thế
kỉ XVIII, Cham từ Pandurangga đi vào Nam trụ lại Tây Ninh và An Giang; sau đó
ít lâu do bên Campuchia có biến, một số từ Campuchia trở lại An Giang. Giữa thế
kỉ XX, một bộ phận vào Sài Gòn, để nửa cuối thế kỉ XX, hàng trăm gia đình ra
Long Khánh sinh sống. Người Cham ở các tỉnh này theo Islam, tức là Hồi giáo
chính thống, với khoảng 50.000 tín đồ.
Nhưng
có thể nói người Cham ở Việt Nam tập trung nhiều nhất ở Ninh Thuận và Bình
Thuận với số dân 110.000 người. Đại đa số người Cham ở Ninh Thuận và Bình Thuận
theo hai tôn giáo chính là Ấn giáo và Hồi giáo Bà-ni. Đông nhất là cộng đồng
Cham Ấn giáo còn gọi là Cham Ahier với 68.000 người; Hồi giáo Bà-ni là Islam
được Cham hóa để trở thành thứ tôn giáo dân tộc rất độc đáo với 38.000 tín đồ;
số ít còn lại theo Hồi giáo chính thống được truyền vào Ninh Thuận vào thập
niên 60 cùng vài tôn giáo mới du nhập gần đây như Công giáo, Tin Lành.
Tôn giáo Cham là tôn giáo mở. Nhập địa Champa vài
thế kỉ và khẳng định vị thế của mình vào thế kỉ 14, Islam xung đột với cộng
đồng và tổ chức xã hội Cham Ấn giáo kéo dài suốt hai thế kỉ, mãi đến thời Po
Rome (1627-1651), tôn giáo này mới được biến cải thành Hồi giáo Bà-ni.
Ở
đây năm cột trụ làm nên nền tảng đức tin Hồi giáo, là: Chahadah: đức tin không
có Chúa Trời nào khác ngoài Allah, Salat: cầu nguyện 5 lần một ngày, Zakat: bố
thí, Sawm: nhịn ăn tháng Ramadan, Hadj: hành hương thánh địa Mecca, đều không còn
được người Cham Bà-ni tuân thủ.
Người
Cham Bà-ni bên cạnh đức tin vào Allah, họ còn thờ cả thần Mưa, Biển, Núi… và
cúng ông bà tổ tiên; họ không còn nhớ đến việc hành hương Mecca; còn việc cầu
nguyện mỗi ngày hay ăn chay vào tháng Chín và bố thí chỉ được thực hiện vào mùa
Ramưwan và chỉ dành cho giới tu sĩ; còn ở ngoài đời, người Cham Bà-ni biến
tháng chay tịnh thành ngày lễ: Bbơng Muk Kei, dân gian gọi là Ăn “tết” Bà-ni.
Cuối cùng, ảnh hưởng chế độ mẫu hệ khiến người Cham Bà-ni chú trọng lễ karơh
dành cho nữ hơn katat của nam; còn đám cưới hay đám tang thì hoàn toàn theo họ
mẹ.
Với
Islam là vậy, riêng với Cham Ấn giáo, người Cham Bà-ni có sự hòa hợp rất đặc
biệt. Ở đây, ông bà Cham đã tạo ra hệ phái Mưdwơn để phục vụ lễ bái cho cả đôi
bên. Trong vài lễ tục mang tính gia đình hay dòng tộc, người ta thấy cấp Acar
vào làng Cham Ấn giáo cúng tế. Khi có lễ nghi mang tính khu vực như Pakap Haluw
Kraung, giáo sĩ cả hai bên Cham Ấn giáo lẫn Cham Bà-ni cùng phối hợp thực hiện.
Dân
tộc Cham là cư dân của vương quốc Champa cổ, nhưng không giống các dân tộc
thiểu số khác ở Việt Nam, đại đa số người Cham sống ở vùng đồng bằng theo từng
đơn vị palei (làng), sống xen cư và cộng cư với người Việt. Dù có bộ phận nhỏ
buôn bán lẻ hay làm công chức Nhà nước, người Cham làm ruộng nước là chính, đặc
biệt người Cham ở Ninh Thuận hiện tồn tại ba làng nghề nổi tiếng, là: làng gốm
Bàu Trúc, làng thổ cẩm Chakleng và làng Phước Nhơn chuyên nghề thuốc nam.
Ngay
từ thế kỉ thứ 4, dân tộc Cham đã có chữ viết. Đó là thứ chữ vay mượn từ Ấn Độ
qua nhiều biến thái để trở thành chữ Cham ngày nay, tiếng Cham gọi là Akhar
thrah. Người ta có thể tìm thấy các văn bản gồm văn học, lịch sử, truyền
thuyết, các lễ nghi tôn giáo và nhiều tư liệu giá trị khác được thể hiện bằng
chữ viết này trên các loại lá buông hay giấy bản.
Trước
1975, các bậc có chữ nghĩa trong xã hội Cham tìm đủ mọi cách viết, in (ronéo)
sách giáo khoa bằng Akhar thrah để phổ biến chữ ông bà vào các trường học và
trong dân. Đất nước thống nhất, Ban Biên soạn sách chữ Chăm thành lập năm 1978
chuyên biên soạn và theo dõi việc dạy và học chữ Cham ở các trường Tiểu học có
người Cham sinh sống.
Cộng
đồng Cham sản sinh rất nhiều lễ hội, trong đó Rija Nưgar là lớn hơn cả. Đây là
lễ được tổ chức vào đầu năm Cham lịch (khoảng tháng 4 Dương lịch), mang ý nghĩa
tống khỏi làng cái xấu xa nhơ nhớp của năm cũ, đón cái tốt lành vào làng nhân
năm mới.
Lễ
Rija Praung thực hiện từ 3-7 ngày đêm được xem là lễ trả nợ lớn nhất, là tập
đại thành các điệu múa, bài tụng ca cùng nghi thức liên quan. Lễ Tạ ơn hay Tẩy
oan dù thực hiện đơn sơ hơn, vẫn mang ý nghĩa lớn về mặt xã hội.
Sau
cùng lễ hội Kate diễn ra vào đầu tháng Bảy Cham lịch được dân gian xem như một
thứ Tết của người Cham, ở đó hầu hết làng Cham tổ chức lên tháp dự vào cuộc
hành hương long trọng và nhiều màu sắc.
Kate,
hành hương lên đất Tháp, con người Cham được nhận biết qua lối ăn mặc, tiếng
nói hay điệu múa. Thế nhưng nhắc đến Cham không thể không nói đến tháp Chàm.
Tháp Chàm cô độc, kiêu hãnh có mặt suốt dải đất miền Trung Việt Nam. Trong đó
Thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa – Lịch sử thế giới.
INRASARA
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét