1. Quang cảnh chung
Năng Gù là một dãy cù lao cổ xưa nằm trên sông Hậu, hiện nay có tên hành chánh là xã Bình Thủy thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Cù lao ở vĩ độ 10o31’ Bắc và kinh độ 105o19’ Đông, cách thành phố Long Xuyên khoảng 20 km, cách thành phố Châu Đốc khoảng 30 km. Phía Bắc cù lao giáp xã Bình Thạnh Đông (huyện Phú Tân), phía Nam giáp xã An Hòa và Bình Thạnh (huyện Châu Thành), phía Tây giáp sông Năng Gù và xã Bình Mỹ (huyện Châu Phú), phía Đông giáp sông Hậu và xã Mỹ Hội Đông (huyện Chợ Mới).
Cù lao nằm cặp bờ Tây sông Hậu, chia dòng chảy của sông ra
làm hai nhánh: phía Đông là sông Hậu (sông Cái) và phía Tây là xép Năng Gù
(xép: sông nhỏ). Diện tích tự nhiên của cù lao khoảng 15km2. Buổi
đầu mới khai phá, chiều ngang cù lao khoảng 1,5 km, chiều dài khoảng 6,5 km.
Ngày nay, do nhận được lượng phù sa rất
lớn từ sông Hậu bối đắp nên diện tích cù lao tăng lên, chiều ngang
chỗ rộng nhứt gần 2,5 km, chiều dài trên 9 km.
Cù lao có hai con rạch tự nhiên chạy song song theo hướng
Bắc Nam. Con rạch phía Đông bắt nguồn từ đầu cù lao chạy dài xuống đến đuôi cù
lao, nhưng phần phía trên được gọi là rạch Trời Đánh, còn phần phía dưới gọi là
rạch Cát. Con rạch phía Tây bắt nguồn từ đầu cù lao chạy đến giữa cù lao rồi
thông ra sông Năng Gù, tên gọi con rạch nầy là rạch Chanh. Ngoài ra còn vài con
rạch nhỏ chiều dài không đáng kể.
Kinh Đình là một con kinh ở giữa cù lao, dài khoảng 1,2 km
nối sông Năng Gù với sông Hậu. Ngày xưa, từ sông Hậu muốn sang sông Năng Gù
bằng xuồng phải vòng lên đầu cù lao rồi đi xuống, hoặc vòng xuống đuôi cù lao
rồi trở ngược lên, đường xa và tốn kém. Không chỉ thế, nơi sông Vàm Nao giao
với sông Hậu thường có nước xoáy, ghe xuồng bị lật rất nhiều. Thấy khó khăn như
thế nên năm 1945, Ban Hội tề làng Bình
Thủy huy động nhân dân đào kinh nầy, vừa xong thì Cách mạng Tháng Tám nổ
ra.
Do nằm cạnh đình làng, nên kinh mang tên là kinh Đình. Từ
khi có kinh Đình, giao thông đường thủy thuận tiện hơn, đoạn đường từ sông Hậu
qua sông Năng Gù được rút ngắn. Có kinh thì phải có cầu, vậy là cây cầu nối
liền hai bờ kinh được ra đời, người dân gọi là cầu Đình. Năm 2013, con kinh bị
lấp để quy hoạch khu dân cư, ngày nay địa danh kinh Đình và cầu Đình chỉ còn
trong hoài niệm.
Trước đây, muốn đến cù lao phải qua sông bằng đò máy. Hiện
nay, cầu Bình Thủy bắc qua sông Năng Gù đã nối liền cù lao với quốc lộ 91,
khánh thành ngày 19/1/2014. Đây là cầu giao thông nông thôn có quy mô và kinh
phí lớn nhứt huyện Châu Phú tính đến thời điểm hoàn thành. Từ quốc lộ hiện ra
một cây cầu nằm choáng giữa không gian bao la, rồi ngoằn ngoèo rẽ sang cù lao
xanh mướt, mở ra một hình ảnh mới về tương lai.
2. Quá
trình hình thành
Công cuộc khai mở đất phương Nam định hình từ những cuộc di
dân lớn của người Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ năm 1698 đến 1700,
Chưởng cơ Thống suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý miền Nam, đặt bước
đầu trong công cuộc bình định an dân của chánh quyền Đàng Trong. Năm 1757,
toàn Nam Bộ thuộc chủ quyền Đại Việt. Mặc dù tiếp theo sau đó là nhiều năm
chinh chiến rối ren giữa các thế lực, nhưng một số công tác khai hoang vẫn được thúc đẩy, trong đó có ông Dương Văn Hóa lập thôn Bình Lâm
năm 1783.
Dòng họ cụ Dương vốn gốc gác là những lưu dân miền Trung vào
Nam tìm vùng đất mới từ năm 1768. Ông đến nhiều nơi như Mỹ Tho đại phố (Tiền
Giang), Long Hồ dinh (Vĩnh Long), miệt Cần Lố (Đồng Tháp) rồi rạch Tà Mòn ở cù
lao Giêng (nay là xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Tại đây, một nhánh
đã chọn ở lại lập nghiệp, một nhánh khác do ông Dương Văn Hóa đứng đầu đã tiếp
tục ra đi về hướng Bắc và dừng lại khai khẩn cù lao Năng Gù. Bấy giờ, ông chỉ
khai khẩn được từ cuối cù lao cho đến giữa cù lao. Phần phía Bắc chưa khai khẩn
được, chỉ toàn là rừng rậm. Có lẽ vì thế nên ông đặt cho thôn tên là Bình Lâm
với ước mơ khai phá rừng hoang cho dân sinh sống, lập nghiệp.
Thôn Bình Lâm đã được thành lập nhưng thực tế chưa được công
nhận chính thức. Đáng tiếc là tư liệu về lịch sử thành lập làng và đình Bình
Thủy được sử dụng chính thức trong đại lễ Kỳ yên hằng năm đã giới thiệu không
chính xác thông tin nầy. Để rồi từ đó, một loạt các bài viết của nhiều tác giả
khác nhau khi viết về đình và làng Bình Thủy đều chia sẻ thông tin sai lệch đó.
Cụ thể, các tài liệu cho rằng thôn Bình Lâm được vua Lê Hiển Tông niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 44 (năm 1783) công nhận và ban sắc thần.
Thông tin nầy hoàn toàn trái ngược với lịch sử. Thời Trịnh -
Nguyễn phân tranh, vua Lê không có thực quyền ở Đàng Trong, mà vùng đất nầy do
chúa Nguyễn kiểm soát. Do vậy, không thể có chuyện các văn bản được phép thông
thương giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Làm sao có chuyện một ngôi làng ở “cuối
đất cùng trời” được sự công nhận của vua Lê?
Sau đó, Tây Sơn khởi nghĩa, chánh quyền Đàng Trong không
còn. Song, lúc bấy giờ miền Nam trên thực tế lại không thuộc thế lực nào, bởi
đang là vùng tranh chấp giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh. Do không bên nào có đủ
khả năng để thiết đặt chánh quyền cơ sở ổn định lâu dài, nên không thể có làng
thôn nào được công nhận về mặt hành chánh trong giai đoạn nầy.
Vậy thì chắc hẳn suốt hàng chục năm, thôn Bình Lâm không
thuộc bất cứ một đơn vị hành chánh nào. Sau khi vua Gia Long thống nhứt đất
nước và lên ngôi (1802) lập ra triều Nguyễn, các thôn làng mới lần lượt được
công nhận. Trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí biên soạn
năm 1806, Lê Quang Định dù có nhắc đến cù lao Năng Gù nhưng không hề nhắc đến
tên thôn Bình Lâm, mà chỉ ghi nhận là có dân cư sinh sống trên cù lao: “Giữa
sông có cồn, gọi là cù lao Năng Cù, trên đó có dân cư, ở đây nước chia ra hai
nhánh, hai bên sông đều có dân cư và ruộng cấy lúa, phía ngoài là rừng chằm,
đến rạch Năng Cù, ở phía bên phải, rộng 5 tầm, sâu 2 tầm, chảy đến cùng thì có
dân cư” [Lê Quang Định 2005: 330].
Sự ra đời các thôn làng dưới triều Gia Long được ghi nhận
sớm nhứt là năm 1808 [Võ Thành Phương 2014: 8]. Thật vậy, đến Gia Định
thành thông chí công bố vào khoảng những năm 1820, Trịnh Hoài Đức mới
nhắc đến thôn Bình Lâm: “Ở phía trước hạ khẩu Vàm Nao thuộc Hậu Giang dài 9
dặm, có thôn Bình Lâm ở đấy. Ở đây rừng tre um tùm, đầy dẫy ao cá, dân ở vùng
thượng lưu Hậu Giang nhờ khai thác tre và cá tôm làm nghề sinh nhai hằng ngày, ngoài ra còn trồng bông kéo sợi và lúa gạo”
[Trịnh Hoài Đức 2006: 92].
Như vậy, thôn Bình Lâm lập năm 1783 nhưng phải sớm nhứt là
năm 1808 mới được công nhận chính thức và chánh quyền công nhận là triều vua
Gia Long, chứ không phải do vua Lê Hiển
Tông công nhận vào năm 1783 như một số tài liệu đã viết. Đương
nhiên, cũng không có sắc thần nào được ban vào thời vua Lê.
3. Thay
đổi qua từng thời kỳ
Sau khi thống nhứt đất nước, triều Nguyễn đặt ra các đơn vị
hành chánh, thôn Bình Lâm thuộc trấn Vĩnh Thanh. Trấn nầy có một phủ là Định
Viễn, cai quản 4 huyện, 66 tổng, 353 thôn, trong đó thôn Bình Lâm thuộc huyện
Vĩnh Định (huyện nầy thưa dân nên chưa chia ra tổng). Nếu xét huyện Châu Phú
theo địa bàn hiện nay, thì vào đầu truyền Nguyễn vùng đất nầy chỉ có hai thôn
là Bình Thạnh Tây (nay là xã Vĩnh Thạnh Trung) và Bình Lâm (nay là xã Bình
Thủy).
Theo hậu duệ họ Dương cho biết, sau khi thôn Bình Lâm được
công nhận chính thức, ông Dương Văn Hóa được quan Trấn thủ Vĩnh Thanh phong
chức Trùm tri thâu, cai
quản “vùng xép” từ Cái Dầu đến giáp ranh Chắc Cà Đao (phạm vi cai quản rộng hơn
phạm vi khai khẩn) [Tư liệu điền dã 2012]. Điều nầy hợp với thực tế vì cụ Dương
mất ngày 22 tháng Giêng năm 1818, nếu thôn Bình Lâm được công nhận khoảng năm
1808 thì cụ có thể đảm nhiệm chức vụ nói trên trong khoảng 10 năm cuối
đời. Trùm tri thâu là một chức vụ trong bộ máy hành chánh cấp
thôn, được triển khai dưới thời chúa Nguyễn Ánh vào cuối thế kỷ XIX và tiếp tục
tồn tại ở triều Gia Long đầu thế kỷ XX. Trong bộ máy nầy, Trùm cả là
người đứng đầu hội đồng hương chức, còn Trùm thâu hoặc Tri
thâu (cách gọi của các địa phương không thống nhứt) là người phụ trách
thuế vụ.
Năm 1832, vua Minh Mạng đổi đơn vị trấn ra đơn vị tỉnh, tỉnh An Giang được thành lập với 2
phủ và 4 huyện, gồm phủ Tuy Biên (cai quản huyện Tây Xuyên và Phong Phú) và phủ
Tân Thành (cai quản huyện Đông Xuyên và Vĩnh An). Thôn Bình Lâm thuộc huyện Tây
Xuyên, phủ Tuy Biên. Không rõ địa danh Bình Lâm được đổi thành Bình Thủy khi
nào, chỉ biết khi Pháp đến đã sử dụng địa danh Bình Thủy. Năm 1867, Pháp chiếm
Nam Kỳ và lập hạt thanh tra Châu Đốc, năm 1868 lập hạt thanh tra Long Xuyên.
Theo Quyết định ngày 3/12/1870, Pháp chia tổng Định Thành
thuộc hạt thanh tra Châu Đốc thành hai tổng: Định Thành Thượng thuộc hạt thanh
tra Châu Đốc và Định Thành Hạ thuộc hạt thanh tra Long Xuyên, khi đó làng Bình
Thủy thuộc tổng Định Thành Thượng. Chánh quyền Pháp ban hành Quyết định ngày
2/11/1876 chuyển làng Bình Thủy từ tổng Định Thành Thượng thuộc hạt thanh tra
Châu Đốc về tổng Định Thành Hạ thuộc hạt thanh tra Long Xuyên. Đến quyết định
ngày 13/10/1879, Pháp giải thể làng Bình An cùng tổng Định Thành Hạ để nhập vào
làng Bình Thủy [Nguyễn Đình Tư 2017: 196 & 352-353].
Năm 1900, hạt Long Xuyên trở thành tỉnh Long Xuyên. Năm
1917, quận Châu Thành thuộc tỉnh Long Xuyên được thành lập, tổng Định Thành Hạ
đổi tên thành tổng Định Thành. Khi đó làng Bình Thủy thuộc tổng Định Thành,
quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Năm 1956, xã Bình Thủy thuộc quận Châu Thành,
tỉnh An Giang. Xã có 4 ấp: Bình Phú, Bình Hòa, Bình Thới nằm trên cù lao và
Bình An nằm bên kia sông Năng Gù.
Năm 1979, xã Bình Thủy được trao về cho huyện Châu Phú, ấp
Bình An bên kia sông được tách ra và nhập với một phần xã Bình Hòa để thành lập
xã mới An Hòa (huyện Châu Thành). Vậy là sau hơn một thế kỷ chuyển từ tổng Định
Thành Thượng (tương ứng huyện Châu Phú ngày nay) về tổng Định Thành Hạ (tương
ứng huyện Châu Thành ngày nay), cuối cùng xã Bình Thủy cũng đã được “châu về
hiệp phố”. Hiện nay xã Bình Thủy có 6 ấp hoàn toàn nằm trên cù lao: Bình Phú,
Bình Quý, Bình Thới, Bình Thiện, Bình Hòa, Bình Yên.
VĨNH
THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa - Lịch sử An
Giang, số 144, 2017 &
in trong sách Dấu ấn thượng châu thổ, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2021)
_______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch, Nxb Thuận Hóa.
2. Nguyễn Đình Tư (2017), Địa chí hành chính các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc (1859-1954), Nxb Tổng hợp TP.HCM.
3. Trịnh Hoài Đức (2004), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch & Huỳnh Văn Tới hiệu đính, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
4. Võ Thành Phương (2014), “Tìm hiểu thôn làng ở Châu Phú xưa”, Tập san Văn nghệ Châu Phú, số 32.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét