Đó là những ngày cuối năm, Tây Nam chỉ hơi se lạnh,
chúng tôi thực hiện chuyến điền dã về thị xã biên giới Tân Châu, tỉnh An Giang.
Tân Châu nằm giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu, sông Hậu giáp với thành phố
Châu Đốc, sông Tiền giáp với tỉnh Đồng Tháp. Từ Châu Đốc sang Tân Châu phải qua
phà Châu Giang. Đứng trên chuyến phà từ từ xa bờ, con sóng quấn mình theo sau, ai không khỏi
cảm thấy tâm hồn trải rộng ra cùng sông nước. Đằng xa giữa dòng là những cánh
lục bình xanh biếc trôi lững lờ, xuồng ghe di chuyển rộn ràng - những hình
ảnh ghi dấu về một miền quê thanh bình trong lòng những ai lần đầu đặt chân
đến.
Trong nay mai, chiếc cầu hiện đại sẽ hoàn thành, nối
đôi bờ Hậu giang. Không chỉ Tân Châu mà khắp đồng bằng, những chiếc cầu dần
được mọc lên, đẩy hình bóng chuyến phà lùi vào dĩ vãng. Giao thông thuận tiện
hơn, nhưng đồng thời chúng ta cũng mất đi một nét văn hóa dễ thương của miền
Tây: đi phà. Rồi đây, mấy ai nhớ rằng người miền Tây gọi phà là “bắc” bắt nguồn
từ chữ “bac” trong tiếng Pháp thời Nam Kỳ là thuộc địa. Tìm đâu hình ảnh đợi
phà, để hỏi han nhau, để tình cờ gặp người quen, để mua giúp bà cụ bán xôi hay
chị bán đậu phộng… để người với người gắn kết nhau hơn.
Theo tỉnh lộ 953, từ phà Châu Giang đến trung tâm thị
xã Tân Châu dài 17 km. Không khí trong lành, làng mạc yên bình, những cánh đồng vàng màu lúa chín
đang đợi ngày thu hoạch… là những lời chào mời đầu tiên mà Tân Châu dành cho
chúng tôi. Trái với khung cảnh đó, càng gần về trung tâm thị xã, phố phường
càng sầm uất. Ngôi chợ mới xây dựng khang trang, sung túc, bắt nhịp với cuộc
sống hiện đại mà đô thị trẻ đang chuyển động. Thị xã nổi tiếng với bờ kè ven
sông Tiền ôm một đường cong mềm mại đầy quyến rũ mà ai đến Tân Châu đều phải
dừng chân nơi đây. Gió từ bờ sông thổi vào lồng lộng, làm mát lòng
du khách đường xa, đánh tan sự oi bức sau thời gian ruổi rong trên đoạn đường
đầy nắng.
Tân Châu và Châu Đốc xét ra hữu duyên. Khi người Chăm
phiêu bạt đến đây, họ đồng thời gọi Mort Chruk (nghĩa là mõm heo) để chỉ làng Chăm của mình và
cho cả vùng đất đối diện bên kia sông, mà nay là làng Chăm Châu Giang và thành
phố Châu Đốc. Mort Chruk bắt nguồn từ Châu Giang rồi bị “đồng hóa” cho Châu
Đốc, hay ngược lại? Dẫu sao, chúng vẫn hữu duyên khi mang cùng một cái tên!
Năm 1757, vùng đất Tầm Phong Long được vua Chân Lạp là
Nặc Tôn cắt cho chúa Nguyễn Phước Khoát - mốc cuối cùng trong cuộc Nam tiến
trường kỳ của dân tộc Việt, phần lớn Tầm Phong Long là An Giang ngày nay. Tướng
Nguyễn Cư Trinh lập ba đạo binh trấn thủ gồm Châu Đốc, Tân Châu và Đông Khẩu. Tân
Châu đạo ban đầu đặt tại cù lao Giêng (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) về sau dời
lên Tân Châu, đối diện Châu Đốc đạo bên kia sông - một lần nữa hữu duyên.
Đôi “tình nhân” ấy lại hữu duyên trong bảo vệ tổ quốc.
Bao lần giặc Xiêm xâm lược biên thùy,
Châu Đốc là địa điểm trọng yếu mà ta và địch đều quyết giành kiểm soát. Nhằm
giúp quân ta thuận tiện tiếp ứng khi khẩn cấp, vua Thiệu Trị cho đào kinh nối Châu
Đốc với Tân Châu vào năm 1843, dưới sự chỉ huy của Tuần phủ Nguyễn Tri Phương và Đốc bộ
Nguyễn Công Nhàn. Kinh ban đầu có tên Long An hà, sau
đổi thành Vĩnh An hà, để ghi nhớ sự hợp tác của nhân dân hai tỉnh An Giang
và Vĩnh Long trong công cuộc đào kinh (chữ “hà” là sông, không phải tỉnh Hà
Tiên như một số tài liệu viết).
Nhà
văn Mai Văn Tạo -
người con của quê hương An Giang đã có những ánh văn đầy cảm xúc: “Kinh Vĩnh Tế
như đại trường giang vượt qua ghềnh đá, rừng hoang, gò nổng vươn thẳng tới Hà
Tiên. Kinh Vĩnh An nối liền sông Hậu - sông Tiền cũng đâu phải chuyện ngẫu
nhiên… Hai dòng nước Vĩnh Tế, Vĩnh An là đường giao thông cấp báo, cứu nguy giữ
các thành Hà Tiên, Châu Đốc với các đồn bảo Giang Thành, Lạc Quới, Tân Châu. Mồ
hôi và máu của lớp lớp người xưa đã quện lại trên những bờ kinh biêng biếc,
trên cánh đồng xanh um rau quả xuân hè, vàng rộm lúa thu. Có thể nào quên màu
xanh cây bát ngát, màu lúa vàng xao xuyến hôm nay đã trỗi dậy từ những đầm lầy
hoang sơ của một thời xa khốn khó.”
Hơn
một thế kỷ rưỡi, kinh Vĩnh An đã làm tròn sứ mạng của mình với tổ quốc và nhân
dân. Không chỉ cung cấp phù sa cho đồng ruộng và tạo sự thuận lợi cho giao
thương, kinh còn có ý nghĩa quan trọng về quân sự. Hiện nay, đoạn đầu kinh ở
trung tâm thị xã Tân Châu đã bị lấp vì ô nhiễm. Tấm bia Vĩnh An hà ghi dấu công cuộc đào kinh cũng bị sạt lở xuống sông
Tiền và mất dấu. Song, hai con đường ở hai bên bờ kinh vẫn mang tên hai vị
tướng lừng danh trong bảo vệ và kiến thiết đất An Giang: Nguyễn Tri Phương - Nguyễn
Công Nhàn.
Buổi
trưa, rời trung tâm thị xã, chúng tôi tiếp tục chậm rãi theo tỉnh lộ 953, qua phà Tân
An để tìm về xã biên giới Vĩnh Xương. Trên đường, những nữ sinh tan học về với
cánh áo dài trong trắng tinh nghịch bay bay trong nắng nhẹ cuối năm, như tô đậm
thêm nét thùy mị của vùng đất nầy. Càng về hướng Bắc, cánh đồng càng trải ra
bạt ngàn, từng đàn cò đáp xuống mặt ruộng trắng một góc trời biên tái. Nước mới
rút, những nông dân đang tất bật chuẩn bị cho mùa vụ sắp tới.
Tìm hiểu đôi nét văn hóa ở Vĩnh
Xương, không thể bỏ qua chùa Bửu Sơn Kỳ Hương - một trong những điểm tựa tinh
thần hiếm hoi của cư dân biên giới. Năm 1941, ông Phạm Thanh Quang - một cư sĩ
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đến Vĩnh Xương truyền đạo và lập chùa bằng tre lá. Năm 1945,
chùa được mang tên Bửu Sơn Thiền Lâm tự. Ông mất năm 1947, từ đó đồ đệ của ông là
ông Trần Văn Soái (thầy Bảy) tiếp nối trông coi ngôi chùa. Năm 2008, chùa được
trùng tu khang trang như hiện nay. Chánh
điện chùa thờ trần điều đắp nổi bốn chữ Hán “Bửu Sơn Kỳ Hương”, phía sau có mộ
của ông Phạm Thanh Quang và ông Trần Văn Soái.
Tân Châu có đường biên giới dài hơn 6
km với tỉnh Kandal, Vương quốc Cambodia - thuận lợi cả đường thủy lẫn đường bộ
trong phát triển kinh tế biên giới, đặc biệt
là có Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương. Mặc dầu hiện nay, Vĩnh Xương vẫn còn
tồn tại không ít khó khăn, song tin chắc rằng địa phương sẽ sớm phát huy được hết
tiềm năng của mình, đóng góp vào sự phát triển chung của tỉnh An Giang. Làm sao
không kỳ vọng điều đó khi vùng đất nầy mang tên Vĩnh Xương - mãi mãi thịnh
vượng!
Sông Tiền từ xã Vĩnh Xương chảy dài
xuống trung tâm thị xã Tân Châu, dù mang bộ mặt hào phóng của sông nước Tây
Nam, nhưng cũng như bao con sông xa xăm cuối trời tổ quốc - vẫn ẩn hiện nét
hoang dại, bí hiểm. Chúng thôi thúc chúng tôi đi tìm! Tìm nét đẹp của sông, hay
thực ra là tìm nét đẹp của người. Con sông sẽ mãi chỉ là tạo vật của tự nhiên
nếu không có tính nhân sinh. “Chất người” ấy làm sản phẩm thiên nhiên đơn thuần
được khoác lên mình chiếc áo the mang tên văn hóa. Nét đẹp của miền sông Tân
Châu cũng chính là những nét đẹp nhân văn mà cộng đồng dân cư lập dựng, để mỏm
đất xa xôi phía đầu sông Tiền mãi neo vào lòng người niềm khắc khoải khôn
nguôi.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét