Trên văn đàn Nam Kỳ trước năm 1945, Việt Châu là một trong những tên tuổi được biết đến rộng rãi, đặc biệt với tập thơ Lông ngỗng gieo tình được độc giả đương thời ái mộ. Tuy nhiên do ông mất sớm, rồi đến chiến tranh loạn lạc với bao thăng trầm, biến động, cái tên Việt Châu dần chìm vào bụi mờ thời gian. Ngày nay, tên tuổi ông dường như đi vào quên lãng, không còn được ai nhắc đến, những tư liệu về ông cũng rất hiếm hoi. Vậy Việt Châu là ai và có cuộc đời như thế nào?
Thi sĩ Việt Châu tên thật là Nguyễn Xuân Thiếp, sanh ngày 7
tháng 3 năm 1918 tại làng Tân Thạnh, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là xã
Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp). Tuy nhiên, gốc gác của ông lại ở tỉnh
Sơn Tây và ông là anh họ của nhà văn Nguyễn Hiến Lê. Thân phụ của Việt Châu là
cụ Nguyễn Côn (1882 - 1960), hiệu Phương Khê, con thứ ba trong gia đình. Anh
trai cả là cụ Nguyễn Nhuận, hiệu Tùng Hương. Anh trai thứ là cụ Nguyễn Cổn,
hiệu Đạo Quýnh. Thân phụ của Nguyễn Hiến Lê là cụ Nguyễn Bí, hiệu Đặc Như, em
trai út.
Thời trẻ, hai cụ Phương Khê và Tùng Hương là những người có
tinh thần ái quốc sâu đậm và bầu nhiệt huyết canh tân, nên đã cùng tham gia
phong trào Duy Tân và giảng dạy ở Đông Kinh Nghĩa Thục. Sau khi trường bị đóng
cửa, Pháp lùng bắt những nhân vật có liên quan, cụ Tùng Hương mất tích, cụ
Phương Khê tìm đường di tản vào Nam. Cụ đến tỉnh Long Xuyên định cư vào năm
1908.
Xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học, từ nhỏ
Xuân Thiếp đã có tài thơ phú, ngoài ra còn biết chữ Pháp, chữ Hán và nghề Đông
y. Ông bắt đầu làm thơ từ rất trẻ, khoảng 15 tuổi. Sau nầy trong hồi ký, Nguyễn
Hiến Lê nhớ lại về anh họ của mình: “Việt Châu (Nguyễn
Xuân Thiếp) tính tình giống bác tôi, có khí tiết mà mềm mỏng, khéo xử sự, biết
lo cho gia đình mà có tài làm thơ, nên bác tôi mến nhất.” [1]
Những tác phẩm thơ của Việt Châu được đăng trên nhiều báo ở
Sài Gòn như tờ Lục tỉnh tân văn do
Nguyễn Văn Ngọ làm Chủ nhiệm và Lê Hoằng Mưu làm Chủ bút, báo Mai của Đào Trinh Nhất, hay các tờ Gió mùa, Dân báo…
Phong cách sáng tác của ông theo khuynh hướng Thơ Mới thời
bấy giờ. Lúc sinh thời, nhà thơ Việt Châu có đời sống giản dị, hằng
ngày chăm sóc ruộng rẫy, có khuynh hướng ẩn dật. Có lẽ, do sống trong không
gian ruộng đồng sông nước, nên thơ Việt Châu thường mang đậm màu sắc dân dã,
chân quê.
Năm 16 tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tay là Xuân xanh (1934). Hơn
mười năm sau, đến khi 27 tuổi (1945), ông đã có bốn tập thơ được xuất bản và
chúng được đông đảo độc giả trẻ yêu thơ thời bấy giờ mến mộ. Các tác phẩm ấy gồm: Tình thơ (1942),
Lông ngỗng gieo tình (1942), Hải Đường hoa rụng (1944),
Tráng sĩ ca (1945).
Trong đó, Lông
ngỗng gieo tình là
truyện thơ viết về sự tích Trọng Thủy - Mị Châu bằng thể thơ song thất lục bát,
rất được mọi người tán thưởng. Năm 1942, Vũ Ngọc Phan từng đánh giá về tập Lông ngỗng gieo tình của Việt Châu: “Lời
kể chuyện bằng thơ là một lối rất khó, xưa nay cũng chỉ mới có tập Kim
Vân Kiều là quán tuyệt cổ kim, vậy mà ông Việt Châu đã viết tập Lông
ngỗng gieo tình được như thế, nhất là lại dùng lối song thất lục bát
là lối nay hình như các thi sĩ không dùng đến.” [2]
Trên văn đàn trước năm 1945,
Việt Châu là nhà thơ được biết đến không chỉ ở Nam Kỳ mà trên cả nước. Ông còn
là bạn với các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Nguyễn Bình, Thâm Tâm, Trần
Huyền Trân, Lê Tràng Kiều, Thụy An, Hoàng Dân… Tại quê nhà, ông thành lập nhóm sáng tác văn thơ mang
tên Văn đàn Đốc Vàng Thượng.
Đánh giá về sự nghiệp thơ của Việt Châu, Nguyễn Hiến Lê nhận định:
“Năm 1940 hay 41, mới 23 tuổi đã xuất bản tập thơ Lông ngỗng gieo tình (truyện Mị Châu,
Trọng Thủy) được một số thi sĩ ở Bắc khen, rồi ít năm sau viết xong một tập thơ
nữa trên ngàn câu về Dương Quí Phi, chưa xuất bản. Thỉnh thoảng có thơ văn đăng
trên báo; lại giữ phụ trương văn chương một tờ nhật báo ở Sài Gòn, có nhiều bạn
thơ ở Bắc, Nam, thường thư từ với Trần Huyền Trân, một thi sĩ theo Việt Minh từ
trước 1944.
Trong cuốn Thi ca Việt
Nam hiện đại (Khai Trí - 1967), Trần Tuấn Kiệt có chép sơ lược tiểu sử và
trích ít bài thơ của anh. Thơ anh trôi chảy, bóng bảy, lãng mạn như các nhà thơ
trẻ tuổi hồi đó, nhưng cũng có bài tả những cảnh chưa ai tả, như bài Hoa ô môi mà trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại đã trích đăng.”
[3]
Bài thơ Hoa ô môi
mà Nguyễn Hiến Lê nhắc đến có nội dung như sau:
“Bạn hãy dừng thuyền, lãng ngắm xa…
… In nền trời biếc một vùng hoa…
Mơ màng bạn nói như đương mộng:
- Hay gác Đằng Vương, bóng Lạc hà…
Bạn tới gần đi! Bạn tính chưa?
Một loài hoa lạ sống tiêu sơ,
Giữa vùng hoang dã trơ vơ đứng,
Bên mé kinh mông, nước đục hờ.
Xuân đã về đây, hoa nở rồi,
Màu phơn phớt đỏ, nụ như môi
Cảnh nhiều trinh nữ - son chưa thắm.
Trong bóng ngày xanh, mủm mỉm cười,
Lá đổ tàn rơi tự lúc nào:
Toàn thân hoa phủ, đẹp làm sao!
Giục người cô lữ Thăng Long nhớ
Vườn cũ, xuân quê, rộn ảnh đào.
Có những loài hoa đẹp tuyệt với.
Âm thầm cam số phận ô môi,
Cũng như những sắc tài không kẻ
Thương, hiểu, đành ôm hận mãn đời!”
Thi sĩ Việt Châu mất ngày 17 tháng 10 năm 1945 tại Cần Thơ
khi mới 27 tuổi. Hậu duệ của ông hiện nay vẫn còn sinh sống tại thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang. Tuy nhiên, qua mấy mươi năm chiến tranh, tác phẩm của Việt
Châu đã thất lạc rất nhiều, ngay cả gia đình cũng không còn giữ được bao nhiêu.
Nguyễn Hiến Lê cũng từng kể: “Nhưng có điều là do thời cuộc, thơ anh ngay vợ
con anh cũng không giữ được.” [4]
Trong phong trào Thơ Mới nói riêng và dòng chảy văn chương Việt
Nam thời tiền chiến nói chung, nhiều cây bút miền Nam thường ít được nhắc đến.
Ngay cả trong tác phẩm kinh điển của thời Thơ Mới là Thi nhân Việt Nam, tác giả Hoài Thanh - Hoài Chân cũng chỉ giới
thiệu hai nhà thơ miền Nam là Đông Hồ và Mộng Tuyết. Việc biết thêm ở Nam Kỳ từng
có những gương mặt văn chương nổi tiểng cả nước, như trường hợp Việt Châu, góp
phần giúp người đời sau nhận định đầy đủ hơn về diện mạo và tiến trình văn
chương trên vùng đất sớm tiếp xúc và hội nhập với văn hóa phương Tây.
VĨNH
THÔNG
(Bài đăng trên Tập san Đồng
Tháp xưa & nay, số 60, 2018)
______________________
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
1, 3, 4. Nguyễn
Hiến Lê (2014), Hồi ký Nguyễn Hiến Lê,
Bản điện tử, tr. 138.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét