Dưới triều vua Tự Đức, có một người phụ nữ từ Nam Kỳ lặn lội ra đến kinh thành Huế để kêu oan cho chồng. Không những chồng được minh oan, mà bản thân bà còn được vua Tự Đức ban thưởng và thái hậu Từ Dũ tặng bảng vàng “Liệt phụ khả gia”. Việc làm của người phụ nữ nầy đến nay vẫn còn được người đời sau không ngớt ngợi ca. Nhân vật đó là bà Nguyễn Thị Tồn, vợ của nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa.
Bà Nguyễn Thị Tồn (không rõ năm sanh)
còn có tên trong gia đình là Diệu, quê ở thôn Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng,
huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa (nay là phường Bửu Hòa, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Thân phụ của bà là ông Nguyễn Văn Lý, làm chức quan
trông coi thuế ở địa phương, gọi là Bạch đàm hộ trưởng.
Chồng bà là nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa
(1807 - 1872), hiệu Chi Nghi, quê ở thôn Long Tuyền, tổng Định Thới, huyện Vĩnh
Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay là phường An Thới, quận Bình Thủy, thành
phố Cần Thơ). Thuở thiếu thời, cậu học trò Bùi Hữu Nghĩa tìm đến Biên Hòa tham
học với thầy Nguyễn Phạm Hàm (dân gian gọi là thầy đồ Hoành) và xin ở trọ tại nhà
ông Nguyễn Văn Lý. Năm 1835, Bùi Hữu Nghĩa đậu Giải nguyên (thủ khoa) kỳ thi
Hương ở Gia Định. Người Đồng Nai đến nay vẫn còn truyền tụng câu ca dao:
“Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi”
Năm 1836, Bùi Hữu Nghĩa tham dự kỳ
thi Hội ở kinh đô nhưng không đậu, được bổ về làm Tri huyện Phước Chánh, phủ
Phước Long, tỉnh Biên Hòa. Ông Nguyễn Văn Lý mến tài của cậu học trò từng trọ học
ở nhà mình, nên đã gả trưởng nữ là Nguyễn Thị Tồn cho Bùi Hữu Nghĩa. Một thời
gian sau, Bùi Hữu Nghĩa được đổi về làm Tri huyện Trà Vang, phủ Lạc Hóa, tỉnh
Vĩnh Long.
Năm 1848, xảy ra vụ việc người Khmer
xô xát với người Hoa ở rạch Láng Thé. Vốn dĩ trước đó, con rạch nầy là nơi người
Khmer khai thác thủy sản lâu đời và được triều đình miễn thuế. Tuy nhiên, một số
người Hoa đã lo lót cho quan địa phương để được độc quyền khai thác. Người
Khmer phẫn uất đến trình với Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa, ông phán xử phần thắng
nghiêng về người Khmer. Tuy nhiên, sau đó vụ xô xát đã xảy ra. Sẵn có hiềm
khích riêng với Bùi Hữu Nghĩa, nhân việc nầy một số quan chức địa phương đã buộc
tôi ông là xúi giục nổi loạn và bắt giam ông.
Khi hay tin, bà Nguyễn Thị Tồn quá
giang ghe bầu vượt biển ra Huế. Qua bao sóng gió trong những tháng ngày lênh
đênh trên biển, cuối cùng bà đến được kinh đô. Bà tìm đến Hiệp biện Đại học sĩ
Phan Thanh Giản, bấy giờ là Lại bộ Thượng thư, Cơ Mật viện đại thần. Sau khi lắng
nghe sự việc, cụ Phan đã tận tình giúp đỡ, viết cho bà tờ cáo trạng để trình
lên vua, đồng thời hướng dẫn bà đến Tam pháp ty.
Tam pháp ty là
tòa án tối cao của triều Nguyễn, hằng tháng mở hội đồng xét xử vào ba ngày cố định
là 6 - 16 - 26 âm lịch. Nếu vụ việc khẩn cấp không đợi được ba ngày ấy, người tố
cáo có quyền đánh chiếc trống lớn trước cửa Tam pháp ty để cầu minh xét. Sau
khi tiếp nhận cáo trạng về sự lộng hành và nhũng nhiễu của quan lại tỉnh Vĩnh
Long, vua Tự Đức đã sai Hình bộ điều tra sự việc. Sau thời gian thẩm án, Bùi Hữu
Nghĩa được miễn chết, nhưng phải sung quân trấn giữ vùng biên ải để lấy công
chuộc tội.
Cảm khái trước việc làm của Nguyễn Thị
Tồn, vua Tự Đức ban tặng bà chiếc võng điều có bốn lọng, giữ bà lại kinh thành
một tháng để triều thần và các cung phi được gặp gỡ người phụ nữ quả cảm, nhằm nêu
gương sáng cho mọi người. Không chỉ thế, Thái hậu Từ Dũ truyền bà vào gặp mặt,
hết lời khen ngợi và ban tặng tấm biển son chạm bốn chữ thếp vàng “Liệt phụ khả
gia”.
Chỉ dụ của nhà vua ban xuống, Bùi Hữu
Nghĩa được ra khỏi tù, đi làm lính ở huyện Hà Âm, phủ Tĩnh Biên, tỉnh An Giang.
Đây là vùng đất biên thùy, núi non và rừng rậm hiểm trở, được ông mô tả lại qua
những dòng thơ như: “Gió trốt dật dờ nơi chiến
lũy / Ðèn trơi leo lét dặm u lâm”. Chồng thoát
khỏi oan án nhưng chưa được về nhà thì bà Nguyễn Thị Tồn đã lâm bệnh rồi qua đời
ở quê nhà Biên Hòa vào ngày 24 tháng 11 âm lịch (không rõ năm mất).
Sự việc nầy làm Bùi Hữu Nghĩa vô cùng đau đớn, khóc vợ bằng lời những lời văn tế bi thiết: “Cây dương liễu là tên ly biệt, trời dành cho em những điều tài sắc, mà mong sửa cuộc đoàn viên / Huê phù dung là giống đoạn tràng, trời sắm cho em những miếng thanh danh, mà mỡ báo nền phước lý.” Ông không quên nhắc lại lòng quả cảm của vợ: “Nơi kinh quốc ba hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng / Chốn tỉnh đường một tiếng thét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ bạn đảng tai nghe đà khiếp vía.” Thậm chí, Bùi Hữu Nghĩa quy cái chết của vợ do mình gián tiếp gây ra: “Anh để nàng chẳng bằng tiền bằng của, mà bằng cái tư lương / Anh giết nàng chẳng bằng gươm bằng đao, mà bằng cái khổ luỵ.”
Ngoài ra, ông còn viết tặng bà câu đối
chữ Hán: “Ngã bần, khanh năng trợ. Ngã oan, khanh năng minh. Triều dã giai xưng
khanh thị phụ / Khanh bệnh, ngã bất dược. Khanh tử, ngã bất táng. Giang sơn ưng
tiếu ngã phi phu.” Tạm dịch: Ta nghèo, mình hay giúp đỡ. Ta tội, mình biết kêu
oan. Triều đình khen mình mới xứng là vợ. Mình bệnh, ta không thuốc thang. Mình
chết, ta không chôn cất. Non sông cười ta chẳng đáng là chồng.
Có thể nói, cuộc đời của bà Nguyễn Thị
Tồn đã ảnh hưởng rất lớn đến con đường công danh và sự nghiệp văn thơ của Bùi Hữu
Nghĩa. Sanh ra và lớn lên trên mảnh đất Nam Kỳ vốn nổi tiếng là vùng đất của những
người phụ nữ dịu dàng, kiên trinh, hào hiệp, Nguyễn Thị Tồn đã tiếp nối truyền
thống ấy và để lại một hình mẫu về người phụ nữ đất phương Nam thủy chung, sẵn
sàng hy sinh, nhưng cũng đầy bản lãnh.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét