Đi tìm huyền thoại trong lòng đất
Nằm bên núi
Ba Thê thuộc thị trấn Óc Eo, chùa Linh Sơn được ví von là “bảo tàng văn hóa Óc
Eo đầu tiên” của An Giang. Đầu thế kỷ XX, người dân địa phương đã tìm thấy hai
tấm bia đá lớn có khắc nhiều chữ cổ và bức tượng bốn tay làm bằng đá dưới chân
núi Ba Thê. Pho tượng được mang đến thờ ở chùa Linh Sơn và hai tấm bia đá cũng
được gắn hai bên tượng.
Thực chất,
pho tượng vốn là tượng thần Vishnu của đạo Bàlamôn, có rắn Naga bảy đầu
hợp thành tán che bên trên. Ban đầu tượng ở tư thế đứng và có màu sắc nguyên
thủy của đá cổ, người Việt không hiểu rõ đã “cải biên” thành tượng Phật bằng
cách đắp phần chân tượng tạo thành tư thế ngồi kiết già, đồng thời sơn màu lên
thân tượng, làm mất đi không ít giá trị nghệ thuật. Hai tấm bia đá đến nay vẫn
còn nguyên vẹn nhưng chữ đã mờ, chữ trên bia rất có thể là chữ của
người Phù Nam xưa.
Phù Nam là
một đế quốc mang màu sắc thần quyền, tồn tại khoảng thế kỷ I - VII tại vùng hạ
lưu sông Mekong, bao gồm cả Nam Bộ Việt Nam và Cambodia ngày nay. Người Phù Nam
có nền văn hóa chịu ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, chữ viết có nguồn gốc từ chữ
Phạn, tôn giáo chủ yếu là Bàlamôn và đạo Phật. Trong thời gian Phù Nam tồn tại,
Óc Eo là một hải cảng sầm uất, đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt.
|
Di chỉ khảo cổ Gò Cây Thị (Ảnh: Vĩnh Thông) |
Thập niên
1940, nhà khảo cổ Louis Malleret (Pháp) đã khai quật vùng Ba Thê - Óc Eo và
phát hiện nền móng của các công trình kiến trúc không có mái ngói. Bên cạnh đó,
ông còn tìm được nhiều hạt cườm, mảnh vàng, đồ trang sức… được chế tác tinh
xảo. Ông đã đề xuất đặt tên cho văn hóa khảo cổ nầy là Óc Eo. Sau đó, giới sử
học nước ta cũng đã tổ chức nhiều đợt khai quật. Kết quả thu được là phát
hiện những kiến trúc cung đình và tôn giáo được xây dựng rất sớm. Theo các nhà
nghiên cứu, đô thị cổ Óc Eo có diện tích rất lớn với hai khu vực chính: nội
thành là nơi ở của quý tộc, quan lại, binh lính, đạo sĩ, thương gia… và ngoại
thành là nơi ở của dân thường.
Lang thang núi Ba Thê
|
Thạch Đại Đao (Ảnh: Vĩnh Thông) |
Ba Thê là
ngọn núi còn nhiều nét hoang sơ, ít có sự tác động của con người, nên ngày nay
được đông đảo du khách tìm đến. Núi có tên chữ là Hoa Thê sơn, cao 221 mét,
chu vi khoảng 4220 mét. Đường lên đỉnh núi khoảng 2 km, được tráng nhựa nên xe
có thể chạy lên dễ dàng. Con đường uốn lượn quanh co giữa cây rừng nầy được làm
từ thời Pháp thuộc cho mục đích quân sự, hiện nay được tái thiết hoàn chỉnh để
phục vụ du lịch. Từ từ chạy xe lên dốc núi, những bóng cây rợp mát, gió từ đồng
bằng thổi lên hiu hiu, sẽ tạo cho du khách sự thích thú.
Trên
đỉnh núi có chùa Sơn Tiên được xây dựng năm 1933 giữa khung cảnh tĩnh lặng,
thâm nghiêm. Cạnh chùa, một tảng đá có khoảng lõm vào trông giống như dấu vết
của một bàn chân khổng lồ, được dân gian gọi là “bàn chân tiên” vì cho rằng đo
là dấu chân của vị tiên nhân nào đó để lại. Đứng từ đỉnh núi, bạn có thể phóng
tầm mắt quan sát vùng tứ giác Long Xuyên bên dưới, dãy Thất Sơn hùng vĩ ở xa,
và bên kia là biển Tây mờ mờ trong nắng.
Từ đỉnh núi xuống,
gặp ngã ba giữa đoạn đường, bạn có thể rẽ sang tham quan Thạch Đại Đao và chót
Ông Tà. Thạch Đại Đao là tảng đá với hình dáng như cây đao khổng lồ. Theo lời
kể dân gian, vào một đêm mưa to gió lớn, có một tiếng nổ kinh hoàng phát ra
trên núi Ba Thê. Sáng hôm sau, người dân phát hiện tảng đá kỳ lạ nầy rồi ùn ùn rủ nhau lên núi xem, thêu dệt
nên hàng loạt chuyện thần bí. Sau nầy, người ta dựng tảng đá trên núi Ba Thê, xây
thêm mái che để tạo điểm tham quan cho khách du lịch.
Từ Thạch Đại
Đao, chúng ta tiếp tục lên viếng chót Ông Tà gần đó. Ông Tà là cách gọi của
người Việt dành cho Neak Ta - vị thần bảo hộ trong tín ngưỡng dân gian của
người Khmer. Qua quá trình cận cư dẫn đến giao thoa văn hóa, người Việt tiếp
nhận và tôn thờ vị thần nầy khắp miền Nam. Khi thờ phượng, ông Tà thường được
tượng trưng bằng một viên đá cuội lớn. Ở núi Ba Thê, ông Tà được tạc tượng, thờ
trên tảng đá cao.
|
Đình thần Phan Thanh Giản (Ảnh: Vĩnh Thông) |
Xuống núi,
bạn có thể đến viếng đình thần Phan Thanh Giản nằm dưới chân núi, đơn sơ mà uy
nghiêm giữa vườn cây xanh mát. Nhân dân làng Vọng Thê xưa đã trân trọng tôn thờ
Hiệp biện Đại học sĩ để tỏ lòng tưởng nhớ. Ngoại thất đình được thiết kế bình
dị, nóc lợp ngói đỏ, trang trí tượng lưỡng long triều nhật. Chánh điện tôn
nghiêm mà ấm cúng, điểm nhấn ở trung tâm là bức tượng Phan Thanh Giản với vẻ
mặt phúc hậu nhưng vẫn phảng phất chút ưu tư. Đây là một trong số ít những ngôi
đình thờ Phan Thanh Giản ở Nam Bộ.
Nét đẹp tên đất tên người
Đến với Thoại
Sơn, nhiều du khách thích thú khi dừng chân tham quan hồ Ông Thoại và núi Sập. Núi
Sập có độ cao 85 mét với chu vi 3800 mét, dân gian kể rằng núi xưa kia có hình
con thỏ nằm giữa cánh đồng bát ngát. Hiện vẫn chưa có nguồn tư liệu nào giải
thích rõ ràng về tên gọi núi Sập. Sau nầy núi được vua ban tên là Thoại Sơn để
ghi công Thoại Ngọc Hầu trong việc đào kinh Thoại Hà.
|
Một góc hồ Ông Thoại (Ảnh: Vĩnh Thông) |
Sau thời gian dài là nơi khai thác đá, núi Sập ngày càng nhỏ dần. Không thể để mất di tích mang tên vị danh thần, tỉnh An Giang bãi bỏ việc khai đá. Song, quá trình khai thác vô tình tạo nên những hang sâu và sau đó chúng trở thành lợi thế để địa phương đầu tư phục vụ du lịch. Ngày nay, khu du lịch Hồ Ông Thoại rộng khoảng 9 ha. Nước được dẫn vào các hố khai thác đá tạo thành các hồ nhân tạo. Xung quanh hồ còn có các khối đá hình thù kỳ lạ. Không ai có thể nghĩ những dấu vết còn sót lại của việc khai thác đá đã vô tình biến thành các “đảo đá” nhô lên trên mặt hồ, làm tăng thêm vẻ đẹp cho khu du lịch. Đặc biệt, trung tâm của hồ là tượng Thoại Ngọc Hầu cao 10 mét do tỉnh Quảng Nam - quê hương ông gửi tặng huyện Thoại Sơn.
Sau khi dạo
quanh hồ, chúng ta có thể thư thả lên núi Sập để hóng mát, ngắm cảnh, viếng
chùa… Đường lên núi được xây bậc thang dễ đi, bạn sẽ có dịp dừng chân tham quan
những chùa miếu trải dọc theo triền núi, đặc biệt trên đỉnh có chùa Duyên Phước
với kiến trúc đẹp mắt. Ngoài ra, du khách cũng có thể đi xe bằng con đường bê
tông vòng theo sườn núi.
Nằm bên triền núi Sập có đình thần Thoại Ngọc Hầu được bao bọc bởi vườn cây xanh thoáng mát. Sử sách ghi lại vào năm 1818, Thoại Ngọc Hầu vâng lệnh triều đình trực tiếp chỉ huy công tác đào kinh Ba Rạch. Kinh nầy nối Đông Xuyên (Long Xuyên) với Giá Khê (Rạch Giá) dài hơn 30 km, trở thành công trình thoát lũ đầu tiên ở miền Tây dưới triều Nguyễn. Khi công việc hoàn tất, để ghi công Thoại Ngọc Hầu, vua ban tên cho dòng kinh là Thoại Hà, bên cạnh kinh có núi Sập cũng được tứ danh là Thoại Sơn.
|
Đình thần Thoại Ngọc Hầu (Ảnh: Vĩnh Thông)
|
Để ghi
lại niềm vinh dự nầy, Thoại Ngọc Hầu cho soạn một bài văn khắc vào bia đá kể
lại quá trình đào kinh và việc ban tên. Đồng thời ông cho lập miếu Sơn Thần
trên triền núi Sập để dựng bia kỷ niệm, khánh thành năm 1822. Ngôi miếu Sơn
Thần sau nầy được nhân dân đổi thành đình thần Thoại Ngọc Hầu để thờ phượng đức
công thần. Bia Thoại Sơn vẫn còn được trân tàng trong đình và được các nhà
nghiên cứu nhận định là một trong những bìa đá cổ còn nguyên vẹn và có giá trị
mỹ thuật cao so với những bia đá khác trong cả nước. Các chữ trên bia vẫn còn
sắc nét vì được lưu giữ trong đình nên không bị thời tiết bào mòn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét