Long Xuyên là một thành phố trẻ trung, năng động, trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của tỉnh An Giang và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nếu xét về mặt lịch sử, Long Xuyên xưa là một trong những vùng đất được khai phá muộn nhứt ở miền Nam. Vậy mà vùng đất đó đã sớm định hình và phát triển với tốc độ vượt bật. Một nơi hoang hóa, ít dân, đời sống nghèo khó, chợ búa kém phát triển… đã vươn mình trở thành một đô thị mang tầm vóc lớn trong khu vực, xứng tầm với sự phát triển chung của đất nước.
Năm 1757, vùng đất Tầm Phong Long được
vua Chân Lạp là Nặc Tôn cắt cho chánh quyền Đàng Trong của chúa Nguyễn Phước
Khoát, đây là mốc cuối cùng trong chặng đường đường Nam tiến của người Việt. Kể
từ ngày đó, hình thể lãnh thổ Đại Việt mới được hoàn chỉnh từ Bắc đến Nam gần
như hiện nay. Buổi ban đầu, địa bàn tương ứng với thành phố Long Xuyên ngày nay
vẫn là một nơi hoang vu, thậm chí chưa có tên gọi chính thức.
Tiếp theo sau đó, phương Nam là nơi
chúa Nguyễn Ánh và Tây Sơn tranh chấp. Trong bối cảnh chiến tranh liên miên và
dân cư ít ỏi như thế, không bên nào đủ khả năng thiết lập chánh quyền hành
chánh ổn định. Năm 1789, chúa Nguyễn Ánh cho lập một đồn nhỏ tại vàm Ba Rách
[1] gọi là thủ Đông Xuyên (thủ: đồn binh nhỏ). Sự
kiện nầy chính thức đánh dấu sự ra đời của Đông Xuyên - Long Xuyên ngày nay. Đến
khi vua Gia Long lên ngôi, khu vực Đông Xuyên
về mặt hành chánh có ba thôn là Bình Đức, Mỹ Phước và Mỹ Thạnh cùng thuộc huyện
Vĩnh Định của trấn Vĩnh Thanh.
Thời
Minh Mạng, triều đình bỏ đơn vị trấn
và lập đơn vị tỉnh. Tỉnh An Giang
chính thức ra đời - một trong lục tỉnh Nam Kỳ đầu tiên. Địa phận tỉnh An Giang
tương ứng với các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và một phần Đồng
Tháp ngày nay. Tỉnh An Giang có mười huyện được cai quản bởi ba phủ Tuy
Biên, Tân Thành và Ba Xuyên. Ba làng Bình Đức, Mỹ Phước và Mỹ Thạnh thuộc huyện
Tây Xuyên của phủ Tuy
Biên. Lúc nầy, danh từ Đông Xuyên (vốn chỉ thủ Đông Xuyên trước đây) trở thành
tên huyện Đông Xuyên nằm trên dãy cù lao giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu
(tương ứng với địa bàn các huyện Chợ Mới, Phú Tân, An Phú và thị xã Tân Châu của
tỉnh An Giang hiện nay).
Thời Tự Đức, vị trí thủ Đông Xuyên được
gọi là Đông Xuyên cảng
đạo. [2] Lúc đó phố chợ đã được hình thành và đang dần phát triển, cũng
là giai đoạn định hình cho chợ Long Xuyên sau nầy. Tuy nhiên, thực tế bấy giờ
đây chưa phải là một ngôi chợ có tầm cỡ lớn trong vùng. Bởi Đại Nam nhất thống chí (biên soạn thời Tự
Đức) khi liệt kê các chợ lớn ở tỉnh An Giang đã không đề cập đến chợ Đông Xuyên
(và cả chợ Châu Đốc là tỉnh lỵ tỉnh An Giang thời đó).
Cũng cần nói thêm, dưới triều Nguyễn
danh từ Long Xuyên là tên huyện Long Xuyên thuộc phủ An Biên của tỉnh Hà Tiên,
còn tỉnh An Giang chỉ có Đông Xuyên chứ không có Long Xuyên. Khi người Pháp đến,
họ đã đọc và viết nhầm Đông Xuyên của An Giang thành Long Xuyên. Điều nầy không
rõ xảy ra chính xác vào khi nào, chỉ biết trong bản đồ Nam Kỳ năm 1860 vẫn còn
chú thích địa danh “Dong Xuien”, nhưng đến bản đồ Nam Kỳ năm 1861 thì vị trí chợ
Đông Xuyên đã được chú thích là “cho Long Xuyen”.
Sau khi Nam Kỳ rơi vào tay Pháp, Long
Xuyên trở thành tên gọi hành chánh chính thức là hạt Long Xuyên, còn huyện Long
Xuyên thuộc phủ An Biên của tỉnh Hà Tiên cũ trở thành hạt Cà Mau. Năm 1900, hạt Long Xuyên trở thành tỉnh Long Xuyên. Năm 1956, tỉnh
An Giang tái lập, nhưng địa bàn thu hẹp hơn tỉnh An Giang thời Nguyễn, chỉ còn
tương ứng với địa bàn hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ thời Pháp thuộc. Từ
đó, thị xã Long Xuyên đóng vai trò tỉnh lỵ tỉnh An Giang. Năm 1999, Long Xuyên
trở thành thành phố trực thuộc tỉnh.
Tuy
là đất mới nhưng Long Xuyên lại có diện mạo văn hóa đa dạng với nhiều di sản
giá trị. Thời chúa Nguyễn rồi triều Nguyễn, nơi đây đã chào đón nhiều lớp di
dân từ các nơi đến lập nghiệp. Họ vừa lao động sản xuất phát triển kinh tế, vừa
kiến tạo văn hóa cộng đồng. Họ có tánh cách cởi mở, phóng khoáng, năng động, dễ
tiếp cận những tác động mới. Tuy nhiên, họ vẫn luôn trân trọng và bảo lưu những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đình thần các làng Mỹ Phước, Bình Đức, Mỹ
Thới… có từ xưa đến nay vẫn là trung tâm tín ngưỡng quan trọng của con người
Long Xuyên.
Thành phố Long Xuyên vinh dự có sông
Long Xuyên uốn lượn chảy quanh. Đó chính là dòng kinh Thoại Hà lịch sử mà Thoại Ngọc Hầu đã chỉ huy
đào theo lịnh vua Gia Long vào năm 1818. Con kinh nối Long Xuyên với Rạch Giá,
giúp lưu thông hàng hóa miền viễn Tây dễ dàng hơn và đưa một phần nước sông Hậu
vào mùa nước nổi thoát ra biển Tây để giảm ngập úng.
Tri ân bậc tiền nhân mở đất, người Long Xuyên đã sớm trân trọng đặt tên Thoại
Ngọc Hầu cho ngôi trường trung học đầu tiên của tỉnh An Giang, nằm ở trung tâm
thành phố, soi bóng xuống Thoại Hà.
Nét đẹp của dòng kinh lịch sử càng
lãng mạn hơn khi có hai chiếc cầu sóng đôi từ lâu đã trở thành niềm thương nỗi
nhớ của người Long Xuyên: cầu Hoàng Diệu và cầu Duy Tân. Cầu Hoàng Diệu xưa là
cầu gỗ, năm 1892 được thay thế bằng cầu sắt mang tên Henrie, năm 1938 được
đúc bê tông và đến năm 1950 đổi tên là cầu Hoàng Diệu. Cầu Duy Tân được
xây dựng vào thập niên 1960, được xem là cây cầu
thơ mộng của thành phố. Chưa thấy ai bàn về việc đặt tên hai chiếc cầu nầy,
nhưng đối với chúng tôi điều đó lại gợi nên nhiều suy gẫm.
Có lẽ người đi trước đã thật tinh tế
khi đặt tên hai chiếc cầu sóng đôi đầy ý nghĩa nầy. Nếu nói theo kiểu Nho học,
Duy Tân và Hoàng Diệu ở vị thế quân - thần, không thể đứng ngang hàng với nhau
như thế. Song, phải chăng người Long Xuyên đã cố tình phá vỡ trật tự nầy để
chuyển tải một thông điệp khác. Hoàng Diệu từng nam chinh bắc chiến và cuối
cùng tuẫn tiết khi mất thành. Duy Tân có tư tưởng canh tân và chống Pháp nhưng
việc bất thành nên phải bị lưu đày. Dù vị thế khác nhau, niên đại khác nhau,
công trạng khác nhau, nhưng cả hai đều tấm gương lớn về tinh thần yêu nước chống
xâm lược, dẫu bằng những hình thức khác nhau.
Thời cận đại, Long Xuyên cũng từng
đón chân nhiều nhân vật lịch sử. Năm 1903, chí sĩ Phan Bội Châu trên đường vào
Thất Sơn liên lạc các phong trào kháng Pháp đã ghé Long Xuyên. Ông dừng chân
nghỉ qua đêm tại chùa Quảng Tế (ngày nay nằm trên đường Lý Thái Tổ, phường Mỹ
Long). Thời bấy giờ, ngôi chùa nầy là cơ sở của đạo Minh Sư, đồng thời còn là
điểm liên lạc bí mật của các nhân sĩ ái quốc với chí hướng “phục Nam bài Pháp”.
Năm 1914, nhà văn Hồ Biểu
Chánh đến Long Xuyên và sau đó có sáu năm làm việc ở đây. Ông thành lập Long Xuyên Khuyến học hội và mở nhóm Cải lương kịch xã trực thuộc hội nầy.
Năm 1917, theo sáng kiến của ông, cải lương lần đầu tiên được đưa lên sân
khấu Long Xuyên với tuồng Quên nhà báo nghĩa [3] do ông và Đốc phủ Lê Quang Liêm cùng soạn. Tuồng hát
được khán giả đón nhận nồng
nhiệt, mở đầu cho một loại hình nghệ thuật mới. Nhiều ý kiến cho rằng năm 1918
là thời điểm ra đời cải lương với rạp hát
hát thầy Năm Tú (Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho. Song với dữ kiện nói trên, chúng tôi cho rằng cải lương được ra đời năm
1917 ở Long Xuyên.
Năm 1918, nhà văn Hồ Biểu Chánh và
nhóm trí thức chủ trương thực hiện Đại Việt
tập chí - cơ quan ngôn luận của Long Xuyên khuyến học hội. Đây là tờ báo chữ
Quốc ngữ đầu tiên của An Giang. Năm 1925, nhà thơ Tản Đà đến Long Xuyên và
ấn tượng với món mắm, còn để lại câu thơ: “Hà tươi cửa biển Tu Ran / Long Xuyên
chén mắm, Nghệ An chén cà.” Năm 1947, học giả Nguyễn Hiến Lê đến Long Xuyên dạy
học…
Với sự tự hào là trung tâm lúa gạo của
cả nước, năm 1970 tỉnh An Giang đã đặt tượng đài Bông lúa con gái tại Công trường Trưng Nữ Vương ở
trung tâm thị xã. Tác phẩm cao 16 mét làm bằng đồng phế liệu, tạo hình thẩm mỹ và sống động,
đạt giá trị nghệ thuật cao. Tác giả là Mai Chửng - nhà điêu khắc nổi tiếng thời
bấy giờ. Sau năm 1975, bức tượng bị đập bỏ. Ba
mươi năm sau hòa bình, thấy được những hạn chế của buổi giao thời, tỉnh An
Giang đã cho xây lại tượng
đài Bông lúa vào năm 2004, tác giả là
họa sĩ Dương Đình Chiến. Đây là biểu tượng đầy tự hào của tỉnh An Giang và là
điểm nhấn làm tôn lên vẻ duyên dáng của thành phố trẻ Long Xuyên.
Năm
2019 là dấu mốc lịch sử đặc biệt, đánh dấu tròn 230 năm thủ Đông Xuyên - thành
phố Long Xuyên. Đông Xuyên của một thời, ngày nay cùng với Cần Thơ, được báo
chí gọi là “hai thủ phủ của đồng bằng sông Cửu Long” cũng không phải quá lời.
Bởi đây là hai đô thị sầm uất hàng đầu Tây Nam Bộ, trung tâm kinh tế - văn hóa
quan trọng của khu vực. Long Xuyên ngày nay có sức hấp dẫn mạnh và gây được
nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè các nơi. Khách tham quan du lịch đến
An Giang hầu hết đều phải đi bằng tuyến đường ngang qua thành phố Long Xuyên,
nên Long Xuyên còn có vai trò là cửa ngõ đầu tiên đón chân du khách khi đến với
An Giang.
Những người trẻ Long Xuyên thời hiện đại không lúc nào không tự hào với thành phố thân yêu của mình. Đọc lời tâm sự của bạn trẻ Vương Đình Khang, chúng tôi hiểu đó cũng là tâm tình của tất cả những người con Long Xuyên: “Nơi tôi sinh ra và lớn lên là một vùng đất yên bình bên dòng Cửu Long - phố bên sông. Một nửa là thành phố đang phát triển dở dang, cái gì cũng thiếu một tí. Một nửa là làng quê, đơn sơ, bình dị, làm nông nghiệp. Những điều đó làm nên một vùng đất không đi đâu mà tôi quên được - Long Xuyên.” [4]
VĨNH THÔNG
(Bài in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Lịch sử 230 năm từ thủ Đông Xuyên đến thành phố
Long Xuyên, Hội Khoa học Lịch sử An Giang, 2019 & sách Dấu ấn thượng châu thổ, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2021)
____________
CHÚ THÍCH:
1. Ba Rách được thư tịch triều Nguyễn viết là “Tam Khê”, song đây không phải địa danh có thật trên thực tế mà chỉ là “Hán hóa” địa danh Ba Rách.
2. Sơn Nam (1988), Lịch sử An Giang, Nxb Tổng hợp An Giang, tr. 107
3. Trước nay, các tài liệu thường viết
tên vở tuồng là Vì nghĩa quên nhà,
song Đại Việt tập chí (số 3, năm
1918) viết tên vở tuồng là Quên
nhà báo nghĩa.
4. Vĩnh Thông (2015), An Giang núi rộng sông dài, Nxb Văn hóa
Văn nghệ, tr. 39.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét