Bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa
Ngày
nay, khái niệm toàn cầu hóa đã trở nên quen thuộc trong đời sống thường ngày, nhưng
vì tính phức tạp về nội hàm nên nó có rất nhiều cách hiểu khác nhau. “Toàn cầu hóa
là khái niệm miêu tả hiện tượng gắn liền với sự gia tăng về số lượng cũng như
cường độ của các cơ chế, tiến trình và hoạt động nhằm thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn
nhau cũng như hội nhập kinh tế, chánh trị, văn hóa… giữa các quốc gia trên thế
giới.” [1] Qua toàn cầu hóa, xã hội thay đổi gắn liền với kinh tế thị trường và
công nghệ thông tin, sự khác biệt trong đời sống nhân loại dần bị xóa nhòa, sự
liên kết giữa các cộng đồng với nhau ngày càng gia tăng.
Mặc
dù toàn cầu hóa thường được nhắc đến nhiều trong lãnh vực kinh tế với thị trường
chung toàn cầu và sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản, nhưng toàn cầu
hóa lại ảnh hưởng mạnh đến chánh trị, thông qua những hiệp ước chung được các
quốc gia ký kết. Do đó, toàn cầu hóa phản ánh xu thế các quốc gia ngày càng
xích lại gần nhau hơn để xây dựng những giá trị chung toàn cầu. Đồng thời, nó
còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống, trong đó có văn hóa.
Toàn cầu hóa văn hóa mở ra cơ hội cho các nền văn hóa đối thoại cùng nhau, nhưng tiềm ẩn nhiều thách thức đối với sự tồn tại bền vững của mỗi đơn nguyên. Đối với Việt Nam, toàn cầu hóa đã làm cho đời sống văn hóa biến đổi mạnh mẽ. Các hoạt động giao lưu đa văn hóa kết hợp với quảng bá những thành tựu văn hóa quốc gia ra thế giới là xu thế nổi bật. Song, toàn cầu hóa cũng dẫn đến những biểu hiện tiêu cực, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn khách quan và toàn diện. Nhìn chung, toàn cầu hóa là tiến trình không thể ngăn chặn, điều cần thiết là hiểu rõ bản chất và đề ra phương pháp phù hợp để giải quyết vấn đề.
Về bối cảnh chung, thập niên 1980 - 1990, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới và mở cửa, tạo ra những cơ hội mới cho các họa sĩ bước đầu hoà nhập vào đời sống mỹ thuật khu vực và quốc tế. “Các triển lãm lớn giới thiệu hội họa được gọi là Doimoi Paintingp - Hội họa đổi mới được tổ chức dồn dập ở nước ngoài từ Hongkong, Sydney, Singapore tới Paris, Brussel, Amsterdam rồi Washington D.C, Boston và California cũng như sự ‘đổ bộ’ ồ ạt các nhà sưu tầm, nhà buôn tranh nước ngoài vào Việt Nam đã làm cho việc ‘phát hiện ra hội họa doimoi’ đầu những năm 1990 thành một hiện tượng sôi động nhất trong khu vực.” [2]
Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN và mở rộng giao lưu với các
nước phát triển ở phương Tây như Anh, Pháp, Mỹ… nhiều cánh cửa mới đã mở ra giúp
giới họa sĩ học hỏi và giao lưu với mỹ thuật quốc tế. Từ những năm 2000, với sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thế giới càng lúc càng xích lại gần
nhau hơn. Giới mỹ thuật Việt Nam tiếp thu mạnh mẽ nhiều trào lưu, trường phái,
xu hướng mỹ thuật đương đại. Từ đó, sự ảnh hưởng của toàn cầu hóa đã để lại những
dấu ấn lên mỹ thuật Việt Nam trên nhiều bình diện.
Trước tiên là sự đa dạng ở khuynh hướng đề tài. Xác định “một hiện thực đa khuynh hướng, với những tác động thuận nghịch đan xen, toàn cầu hóa được cảm nhận và giải thích khác nhau từ những góc nhìn khác nhau”, [3] do đó đề tài mỹ thuật cũng vận động đa chiều. Các tác giả không còn tập trung vào đề tài kháng chiến, lao động sản xuất, ca ngợi đời sống mới, tuyên truyền cổ động… mà bắt đầu có sự cởi mở trong tư duy. Họ “chuyển sang các chủ đề về tự do cá nhân, thân phận con người, đô thị hóa, gia đình, tình yêu, tính dục và giới cũng như vấn đề hội nhập quốc tế, dân chủ, nhân quyền…” [4]
Về
hình thức thể hiện, các họa sĩ dễ dàng tìm kiếm những chất liệu mới để đưa vào
thử nghiệm trong hoạt động sáng tạo của mình. Bên cạnh đó, những phương pháp
sáng tác mới chú trọng hướng đến tính chuyên nghiệp và hiện đại. Những thể nghiệm
nầy đã phần nào thúc đẩy nhiều phân ngành mới trong mỹ thuật từng bước hoàn thiện.
Song song đó, những nhu cầu thực tiễn xuất phát từ đời sống xã hội công nghiệp
hóa và đô thị hóa đã tạo nên cơ hội phát triển mạnh cho những phân ngành mỹ thuật
ứng dụng, đồ họa ứng dụng, nghệ thuật xếp đặt…
Bản thân
mỗi họa sĩ cũng có thêm điều kiện thuận lợi để tự học hỏi, tìm tòi, rèn luyện.
Nếu trước đây họ phụ thuộc phần lớn vào sách vở và chương trình đào tạo của các
đơn vị nhà nước, thì hiện nay họ dễ dàng tìm kiếm những công trình nghiên cứu,
những trào lưu mới, những thủ pháp mới từ bạn bè quốc tế. Các công trình nghiên
cứu mang tính lý luận được phổ biến một cách dễ dàng, khiến mỹ thuật dần thoát
khỏi tính phong trào để trở nên chuyên nghiệp hóa, từ đó kéo theo sự phát triển
có chiều sâu của phân ngành nghiên cứu - lý luận - phê bình.
Cuối
cùng là khâu công bố tác phẩm. Sự nở rộ của các thế hệ họa sĩ độc lập, không phải
là cán bộ của các cơ quan văn hóa, không làm việc phục vụ nhu cầu tuyên truyền
của bộ máy chánh quyền, đã kích thích sự xuất hiện ồ ạt của hàng loạt phòng
tranh cá nhân ở các đô thị. Toàn cầu hóa còn mang lại nhiều điều kiện thuận lợi
cho các họa sĩ công bố tác phẩm trong bối cảnh giao lưu đa văn hóa. Những thập
niên gần đây, càng lúc càng xuất hiện nhiều chương trình liên hoan - triển lãm đa
quốc gia, liên kết khu vực và quốc tế. Ngoài ra, các họa sĩ có thể dễ dàng giới
thiệu tác phẩm qua Internet để được đông đảo công chúng tiếp cận. Các phương thức
công bố tác phẩm đa dạng giúp những người làm hội họa có cơ hội cùng thưởng thức,
cùng trao đổi và cùng học hỏi với nhau.
Dù có
nhiều điều kiện thuận lợi, toàn cầu hóa vẫn mang lại một số thách thức cho mỹ thuật
Việt Nam. Yếu tố thị trường đã tác động đến hầu hết các lãnh vực trong đời sống,
trong đó có cả văn hóa, mỹ thuật cũng không thoát khỏi thực trạng đó. Nhiều tác
giả chạy theo xu thế thị trường, đặt nặng việc sáng tạo nghệ thuật vì mục đích
lợi nhuận, từ đó dẫn đến hiện tượng “nuông chiều” thị hiếu đám đông. Họa sĩ dễ
dàng sáng tác những tác phẩm nhằm phục vụ những đối tượng công chúng dễ tánh,
hoặc “ăn theo” xu hướng nước ngoài. Việc chạy theo lợi nhuận còn dẫn đến một hệ
lụy khác đáng báo động hơn, đó là vấn nạn sao chép - đạo tranh.
Xu hướng quốc tế hóa có thể dẫn đến việc tạo ra những sản phẩm tương tự nhau, thậm chí là rập khuôn. Văn hóa nói chung và các ngành nghệ thuật nói riêng cũng chịu chung số phận bị khoác lên mình chiếc “đồng phục” với những phong cách lặp đi lặp lại. “Sân bay, trung tâm thành phố, hình dáng kiến trúc, dịch vụ, quần áo, biển báo, âm nhạc, ẩm thực... đều cùng một ‘phong cách quốc tế’ hướng về tiêu dùng và giải trí.” [5] Mỹ thuật cũng đứng trước nguy cơ đó, nên dễ dẫn đến sự đơn điệu, thiếu tính đa dạng, đánh mất các giá trị đặc thù của văn hóa dân tộc. Mặt khác, không ít nghệ sĩ và đông đảo công chúng chưa ý thức cao về việc đưa văn hóa dân tộc vào tác phẩm, chưa khai thác hiệu quả nghệ thuật để quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Việc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, cụ thể qua sáng tác những tác phẩm bằng phương pháp hiện đại nhưng thể hiện những đề tài truyền thống, vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Họa sĩ
phải đối mặt với nỗi lo “cơm áo gạo tiền”. Hiện nay, hầu như không nhiều họa sĩ
chỉ sống bằng nghề vẽ, mà họ còn có những nghề chính thức khác nhau, việc vẽ
tranh chỉ được thực hiện trong những lúc rỗi rảnh. Nếu không làm nghề khác, thu
nhập từ vẽ tranh không đủ nuôi sống bản thân và gia đình họa sĩ. Thực trạng đó
khiến họa sĩ bị chi phối thời gian sáng tạo nghệ thuật, mất đi nguồn cảm hứng. Bên
cạnh trường hợp đó, có một bộ phận những họa sĩ khác không thật sự có nhiều tài
năng nhưng dễ dàng nổi tiếng nhờ sự đánh bóng một cách thiếu chính xác của truyền
thông. “Kinh tế thị trường và xã hội thông tin mang lại nhiều điều thuận lợi
nhưng cũng nhiều áp lực với nghệ sĩ trẻ. Chu kỳ biến mất của những cái tên đáng
nhớ cứ ngắn dần từ 20 - 15 xuống 5 thậm chí chỉ 2 năm.” [6]
Trong
công chúng thưởng thức mỹ thuật, chúng ta dễ dàng nhận thấy nổi lên hiện tượng
“trưởng giả học làm sang”. Hiện nay, do các trào lưu mỹ thuật quá dễ dàng tiếp
cận giữa thời đại Internet, nên công chúng thường thấy trên các mặt báo xuất hiện
những cụm từ tranh trừu tượng, siêu thực, lập thể, hậu hiện đại… Họ thỏa sức sử
dụng các cụm từ đó để phô trương trình độ của mình, mặc dù có thể không hiểu
chúng là gì. Họ sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để mua những bức tranh sao chép của
các danh họa nổi tiếng trên thế giới nhằm chứng minh “đẳng cấp” của mình, nhưng
không trân trọng những sáng tác mới của các họa sĩ trẻ.
Một
trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong bối cảnh toàn cầu hóa là tính quốc
tế, thể hiện qua việc tôn trọng các quy ước quốc tế trong từng lãnh vực. Song đối
với mỹ thuật Việt Nam, vấn đề nầy dường như chưa được quan tâm đúng mức. “Những quy định, luật pháp quốc tế về hoạt động quảng
bá, mua bán tác phẩm vẫn chưa được phổ biến và thực hiện ở Việt Nam. Nhiều nghệ
sĩ sáng tác cũng chưa quan tâm đúng mức đến vần đề này, chưa có một cơ quan tổ
chức quan tâm giới thiệu những vấn đề này” [7]. Nhìn chung, chưa có hành lang
pháp lý đủ mạnh, hệ thống quản lý nhà nước còn lỏng lẻo trong lãnh vực nầy.
Cuối
cùng, một khía cạnh rất gần gũi nhưng lại ảnh hưởng lớn đến các tác phẩm mỹ thuật
Việt Nam đương đại, đó chính là sự thay đổi của xã hội Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Bởi, chính đời sống thực tế là nguồn cảm hứng cho sáng tạo. Hình ảnh
làng quê bình dị hay những dãy phố cổ của các danh họa thế kỷ trước đã thay bằng
đô thị hiện đại. Điều đó đòi hỏi họa sĩ phải đưa diện mạo của thời đại vào tác
phẩm, nhưng vẫn làm sao thể hiện được dấu ấn Việt Nam, giữa bối cảnh các quốc
gia cùng bước vào quỹ đạo của toàn cầu hóa, khó có thể nhận diện được những
hình ảnh đặc thù của từng nền văn hóa.
Mặc dù
toàn cầu hóa bị nhiều quốc gia xem là mối đe dọa đối với văn hóa dân tộc, song
không thể phủ nhận rằng chính toàn cầu hóa đã thổi đến những làn gió mới cho mỗi
quốc gia. Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho một nền văn hóa có cơ hội cọ xát với nhiều
nền văn hóa bên ngoài để nhìn nhận lại chính mình, từ đó có những điều chỉnh
phù hợp để tồn tại và phát triển. Vấn đề then chốt được đặt ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa là làm thế nào để bảo đảm sự hài hòa giữa hội nhập và phát
triển với bảo tồn văn hóa dân tộc. Điều đó phụ thuộc vào bản lãnh văn hóa và
tính năng động sáng tạo của chủ thể văn hóa.
Ở Việt Nam, toàn cầu hóa đã mang đến những
diện mạo mới cho đời sống văn hóa nói chung và mỹ thuật nói riêng, trong đó có
những biểu hiện mang tính giá trị, nhưng cũng có nhiều thách thức lớn được đặt
ra. Việc tiếp tục đón nhận những thành tựu của mỹ thuật thế giới đặt trong mối
quan hệ hài hòa với mỹ thuật dân tộc và trong bối cảnh đặc thù của thời đại là
điều hết sức có ý nghĩa. Song song đó, cần nghiêm túc trong nhận thức và ứng xử
với các biểu hiện mới một cách phù hợp, đặc biệt là những chuyển biến của đời
sống đương đại. Với định hướng đó, ngành mỹ thuật có thể biến thách thức thành
cơ hội, vượt qua những khó khăn và mở rộng lợi ích thụ hưởng được từ bối cảnh
toàn cầu hóa.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét