1. Đặt vấn đề
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời năm 1849 và đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời năm 1867 là hai tôn giáo nội sinh trên vùng đất An Giang dưới triều Nguyễn, được xếp vào giai đoạn đầu trong dòng chảy các tôn giáo bản địa ở Nam Bộ. Không chỉ là tôn giáo, đây còn là những phong trào yêu nước và phong trào khẩn hoang có tầm ảnh hưởng lớn. Mặc dù về hình thức có nhiều điểm khác nhau, nhưng những tư tưởng cốt lõi trong giáo lý của hai đạo nầy tương đối giống nhau, đều dựa trên nền tảng căn bản là Tứ ân (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đồng bào nhơn loại). Bên cạnh đó, việc thờ trần điều (vải đỏ sẫm) cũng là một đặc điểm nhận dạng của hai tôn giáo nầy.
Tuy nhiên, trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa
còn có một hình thức thờ cúng giống nhau mà đến nay chưa có nhiều công trình
nghiên cứu quan tâm đến, đó là Ngũ Công Vương Phật hay Chư Vị Năm Ông. Nếu đối
với giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, thờ cúng Năm Ông chỉ còn được biết qua một số tư liệu, thì đối với giáo hệ
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, thực hành tín ngưỡng nầy ngày nay vẫn còn tồn tại. Bài viết
nầy chúng tôi xin giới thiệu một số đặc trưng của tục thờ cúng Năm Ông trong
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa như nguồn gốc đối tượng tín ngưỡng,
hình thức thực hành tín ngưỡng và một số vấn đề có liên quan… mà trước nay chưa
được đề cập đến.
2. Nguồn gốc đối tượng tín ngưỡng
Trong Phật giáo, tục thờ năm vị Phật được cộng đồng Phật tử
theo Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Mật tông chia sẻ, nhưng dưới hai hình
thức khác nhau.
Trong kinh tạng Pali của Phật giáo Nguyên thủy (Theravada)
có nhắc đến năm đời chư Phật tiêu biểu từ quá khứ đến vị lai bao gồm Kakusandha (Phật Câu Lưu Tôn),
Konagamana (Phật Câu Na Hàm Mâu Ni), Kassapa (Phật Ca Diếp), Gotama (Phật Thích
Ca Mâu Ni), Metteyya (Phật Di Lặc). Theo con đường
hoằng pháp Nam truyền, năm vị Phật nầy được Phật tử các nước Myanmar, Thái Lan,
Cambodia… thờ phượng rộng rãi, với hình thức thường thấy là tranh vẽ. Không chỉ
thế, năm vị Phật đôi khi còn được giới pháp sư ngoại đạo đưa vào các hình thức
bùa chú.
Trong khi đó, năm vị Phật ở Phật giáo Tạng truyền lại hoàn
toàn vắng bóng trong kinh văn Pali nguyên thủy. Mật tông đưa ra hình tượng năm
vị Phật tối cao của Kim Cang thừa, mà Trung Hoa dịch là Ngũ Trí Như Lai hay Ngũ
Phương Phật gồm: Vairochana (Phật Tỳ Lô Giá Na), Akshobhya (Phật A Súc Bệ),
Ratnasambhava (Phật Bảo Sanh), Amitabha (Phật A Di Đà), Amoghasiddhi (Phật Bất
Không Thành Tựu). Đối với người tu Mật tông, năm vị Phật với tư cách là bổn tôn
của hành giả, cũng là biểu trưng cho năm tánh cách của con người.
Tuy nhiên, đối tượng thờ cúng mà tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và
Tứ Ân Hiếu Nghĩa gọi là Chư Vị Năm Ông hay Ngũ Công Vương Phật lại không liên
quan đến một trong hai hình thức thờ cúng năm vị Phật từ hai truyền thống Phật
giáo nói trên. Mỹ hiệu của Năm Ông (có khi được đi kèm với ngũ phương) bao gồm:
- (Đông Phương Thanh Đế) Chí Công Vương Phật
- (Tây Phương Bạch Đế) Lãng Công Vương Phật
- (Nam Phương Xích Đế) Bửu Công Vương Phật
- (Bắc Phương Hắc Đế) Hóa Công Vương Phật
- (Trung Ương Huỳnh Đế) Đường Công Vương Phật.
Vậy Ngũ Công Vương Phật là ai?
Thực ra, mặc dù mang danh xưng là Phật nhưng năm vị nầy lại
không phải nhân vật Phật giáo, mà là năm vị tướng của Trung Hoa thời Tam
Quốc được người đời sau tôn thờ gồm: Quan Công, Quan Bình, Châu Xương,
Trương Tiên, Vương Thiên Quân. Năm vị tướng được xem là biểu tượng của trung
nghĩa, nên việc thờ phượng các ông còn mang ý nghĩa giáo dục về lòng trung
nghĩa. Tục thờ năm vị tướng nầy đã có từ lâu ở Trung Hoa, nhưng tương truyền
mãi đến năm Càn Long thứ 46 (1781) triều Thanh mới chính thức có danh xưng Ngũ
Công Vương Phật xuất hiện. Khi thể hiện bằng tranh, Quan Công thường ngồi ở
giữa, hai bên có Quan Bình và Châu Xương, thêm Trương Tiên đứng sau Quan Bình
và Vương Thiên Quân đứng sau Châu Xương.
Quan Công tên thật là Quan Vũ, tự Vân Trường, thời trẻ cùng
Lưu Bị và Trương Phi kết nghĩa anh em, sau theo phò Lưu Bị và góp công lớn
trong việc dựng nghiệp cho nhà Thục Hán. Ông nổi tiếng với đức tánh trung
nghĩa, được người đời sau tôn là Quan Thánh Đế Quân hay Hiệp Thiên Đại Đế. Tạ
Chí Đại Trường [2014: 293-294] nhận định: “Tính chất lưu vong và thương nhân ít
học (so với nho sĩ khoa bảng) khiến cho người Hoa biết ‘tiểu thuyết’ nhiều hơn
kinh truyện, và tin nhân vật tiểu thuyết lịch sử hơn là trong sử kí. Thần Quan
Đế của họ mang tính khu vực lưu tán (Nam Trung Quốc) là hình ảnh rút từ Tam
Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung chứ không phải từ Tam
quốc chí của Trần Thọ.”
Quả như thế, Quan Bình vốn là con ruột
của Quan Vũ, nhưng trong tiểu thuyết thì nhân vật chỉ nầy là con nuôi. Trong
khi đó, Châu Xương hoàn toàn là một nhân vật hư cấu, với xuất thân là một tướng
cướp, về sau theo phò Quan Vũ. Ảnh hưởng từ tiểu thuyết trên nên trong văn hóa
dân gian Trung Hoa, Quan Bình được tôn là Quan Thái tử và hiệu là Cửu Thiên Uy
Linh Hiển Hóa Đại Thiên Tôn, còn Châu Xương là Cương Trực Trung Dũng Đại Thiên
Tôn.
Trương Tiên và Vương Thiên Quân cũng trở thành các vị thần trong Đạo giáo. Trương Tiên là vị thần phù trợ sản phụ và trẻ sơ sanh, được tôn là Linh Ứng Trương Tôn Đại Đế Thất Khúc Dục Thánh Thiên Tôn. Vương Thiên Quân được người Trung Hoa cho là Thiên Lôi (Lôi Công) và tôn là Thái Ất Lôi Thinh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Người Hoa khi di cư sang Việt Nam đã mang theo tín ngưỡng
Ngũ Công Vương Phật. Tục thờ cúng nầy dần trở nên phổ biến và được người Việt
tiếp nhận. Nhiều gia đình người Việt xem Năm Ông là thần độ mạng cho gia chủ,
thường thờ phượng dưới hình thức tranh kiếng, đặt trong một trang thờ nhỏ treo
trên vách nhà. Nhiều nơi sản xuất tranh kiếng ở Nam Bộ có chế tác tranh thờ Năm
Ông, phía trên tấm tranh có ghi dòng chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật”. Tại núi Cấm
(tỉnh An Giang) có miễu Năm Ông thờ phượng theo mô thức nầy. Ngôi miễu được xem
là một trong những điểm linh thiêng trên núi Cấm, đặc biệt đối với giới bùa
phép và đồng bóng [Tư liệu điền dã 2016].
3. Đặc điểm thực hành tín ngưỡng
3.1. Bửu Sơn Kỳ Hương
Đối với đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, chúng ta chưa tìm thấy lời dạy
nào chính thức từ Đức Phật Thầy Tây An (giáo chủ Đoàn Minh Huyên) hoặc các cao
đồ về việc thờ Năm Ông. Bởi không như Tứ Ân Hiếu Nghĩa xem trọng việc bày trí
thờ phượng, Bửu Sơn Kỳ Hương chủ trương đơn giản hóa việc thờ cúng. Song, qua
một số tư liệu, chúng ta có thể góp nhặt được những thông tin đáng lưu ý.
Thứ nhứt, năm 1851, Đức Phật Thầy Tây An giao cho đại đệ tử
là Quản cơ Trần Văn Thành làm năm cây thẻ để ngăn chặn “kẻ dữ” xâm phạm đất
đai. Đó là những cây gỗ lào táo, đẽo gọt thành hình búp sen và khắc bốn chữ
“Bửu Sơn Kỳ Hương”, được cắm ở bốn hướng và một ở trung tâm. Các cây thẻ lần
lượt được mang tên giống với danh hiệu Ngũ Công Vương Phật nói trên, bao gồm:
- Đông Phương Thanh Đế (nay ở xã Cần Đăng, huyện Châu
Thành, tỉnh An Giang)
- Tây Phương Bạch Đế (nay ở xã Vĩnh Tế, thành phố Châu
Đốc, tỉnh An Giang)
- Nam Phương Xích Đế (nay ở xã Vĩnh Điều, huyện Giang
Thành, tỉnh Kiên Giang)
- Bắc Phương Hắc Đế (nay ở xã Vĩnh Thạnh Trung,
huyện Châu Phú, tỉnh An Giang).
- Trung Ương Huỳnh Đế (nay ở xã An Hảo, huyện Tịnh
Biên, tỉnh An Giang)
Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gọi đó là Ông Thẻ hay Quan Thẻ và
lập miếu thờ ở các địa điểm nói trên, đến nay vẫn còn.
Thứ hai, trong một tác phẩm thơ Nôm cổ (không rõ tác giả)
thuật lại sự tích Đức Phật Thầy, có nhiều lần nhắc đến tục thờ Năm Ông. Tác
phẩm nầy hiện có hai bản là Giảng Năm Ông do Nguyễn Hữu Hiệp
sưu tầm và công bố năm 1974 và Kinh Năm Ông do Nguyễn Văn Sâm
sưu tầm ở An Giang năm 2006 và công bố năm 2009. Hai bản có nhiều điểm khác
nhau, nhưng chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra chúng chỉ là hai dị bản của
cùng một tác phẩm. Xin trích một số câu quan trọng:
+ “Bao
nhiêu thói dữ đừng màng
Đêm
ngày niệm Phật kỉnh thờ Năm Ông”
+ “Kỉnh
tin Năm Ông Ngũ Phương
Điều
lành thời giữ chớ mong thói tà”
+
“Đêm ngày tin tưởng Năm Ông
Họa ra
đặng thoát khỏi chưng nạn này”
[Nguyễn Hữu Hiệp 1974: 84-92]
Thứ ba, Sư Vãi Bán Khoai là một nhân vật truyền đạo ở Nam Kỳ
những năm 1901 - 1902, không rõ lai lịch trước đó và hành tung sau đó, tuy
nhiên vẫn được tín đồ xem là một trong những vị kế tục dòng chảy Bửu Sơn Kỳ
Hương. Ông để lại bộ Sấm giảng người đời gồm 11 quyển, trong
đó quyển thứ 9 có đoạn hướng dẫn việc thờ phượng Năm Ông như sau:
“Trong nhà lập mấy bàn thờ
Cửu huyền thất tổ, ngoài thờ Năm Ông
Thường đêm hương đốt đừng không
Thời là lại có lưỡng thần chép biên”
[Sư Vãi Bán Khoai 1949: 99]
Thứ tư, hiện nay tại đình Tòng Sơn (xã Mỹ An Hưng A, huyện
Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) có bàn thờ Chư Vị Năm Ông. Tòng Sơn là quê hương của
Đức Phật Thầy và ngôi đình nầy cũng nơi đầu tiên ông tá túc khi trở về làng
(1849) sau nhiều năm lưu lạc. Dân gian kể rằng, ở tại đình được một thời gian,
ông tiếp tục rời đi và để lại một cây cờ ngũ sắc được gọi là “cây thẻ Năm Ông”.
Lúc đó, dịch bịnh đang xảy ra nên dân chúng kéo nhau đến thỉnh vải cờ để uống
chữa bịnh: “Thiên hạ lúc đầu tới đình thỉnh còn được cờ, vài hôm sau hết cờ, họ
đẽo tới cán cờ đem về thiêu, rồi hòa với nước mà uống, uống đâu hết đó” [Dật Sĩ
& Nguyễn Văn Hầu 1972: 67].
3.2. Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Đối với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Năm Ông là đối tượng tín
ngưỡng được thừa nhận chính thức. Tư gia của tín đồ có bàn thờ Năm Ông ở phía
trước nhà, đối diện với bàn thờ chánh. Trên bàn thờ có bức vải hoặc giấy đỏ với
kích thước lớn, ghi bốn chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật” và tín đồ gọi theo cách
dân gian là “Chư Vị Năm Ông”. Bàn thờ nầy nằm ở giữa so với chiều ngang của mặt
tiền ngôi nhà, vì thế theo truyền thống nhà của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa không
làm cửa ở giữa mà chỉ làm cửa hai bên, ở giữa sẽ là vách mang chức năng như
bình phong che cho bàn thờ Năm Ông [Tư liệu điền dã 2015]. Tuy nhiên tập quán
nầy ngày nay đa phần không còn được giữ gìn.
Từ tục thờ Năm Ông, tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa có một số kiêng
kỵ trong cách nói. Họ không nói từ “công” (trong danh hiệu Ngũ Công Vương Phật)
mà phải nói trại là “cung” hoặc “cuông”, trường hợp một công đất thì gọi
là “một vuông đất”. Không được dùng từ “đường” (trong danh hiệu Đường Công
Vương Phật) mà gia vị đường phải gọi là “ngọt” và đường đi phải gọi là “lộ”…
Niềm tin Năm Ông được chính thức ghi nhận trong đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa sớm nhứt là từ thời Đức Bổn Sư (giáo chủ Ngô Lợi). Năm 1878, ông tổ
chức khởi nghĩa chống Pháp ở Cai Lậy (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), có rao giảng
về quyền lực của Năm Ông. Điều nầy về sau được Nguyễn Liên Phong [1909: 68] thuật
lại trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca:
“Sau thêm Ong, Khả, lẫy lừng
Roi mây ngựa chuối giăng giăng khởi cùng
Dối rằng phép lạ Năm Ông
Bùa linh hiển hích súng không làm gì”
Hơn nửa thế kỷ sau, hình thức đó được lặp lại trong cuộc nổi
dậy chống Pháp của ông Đạo Tưởng ở Tân Châu (nay thuộc tỉnh An Giang) năm 1939.
Ông tên thật là Lâm Văn Quốc, thường gọi là Ba Quốc, biết võ nghệ và có học bùa
ngãi. Năm 1928, ông lập am tu hành ở Tân Châu. Theo mô tả của Nguyễn Văn Kiềm
[1966] thì ở giữa am thờ Quan Công, bên trái thờ Thần, bên phải thờ Thánh, đối
diện phía ngoài thờ Chư Vị Năm Ông - hình thức thờ phượng với bốn bàn thờ như
trễn rõ ràng là đặc trưng nhận diện của Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
4. Nghi vấn liên quan đến Thiên Địa hội
Thiên Địa hội là một tổ chức bí mật của người Trung Hoa với
mục đích phản Thanh phục Minh, ra đời vào năm 1674 tức năm Khang Hy thứ 13
triều Thanh. Người Trung Hoa (chủ yếu là khu vực phía Nam) di cư đến Nam Bộ -
Việt Nam vào thế kỷ XVII - XVIII đa phần vì lý do chánh trị, không bằng lòng
sống trong sự quản lý của người Mãn, họ mang theo cả Thiên Địa hội trên hành
trình di cư. Theo Sơn Nam [1997: 94], Chủ tỉnh Hà Tiên là Emile Puech (người
từng ở Long Xuyên đàn áp cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa năm 1873) cho rằng Thiên Địa
hội có mặt ở Nam Kỳ trước khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Sau khi Pháp đến,
dần dần người Việt tham gia càng đông đảo vào Thiên Địa hội và nêu cao lý tưởng
“phục Nam bài Pháp”. Mục đích của họ là đánh đuổi ách thống trị của Pháp và tái
thiết chế độ quân chủ.
Sau cuộc nổi dậy tấn công Khám lớn Sài Gòn năm 1916 nhằm
giải cứu Phan Xích Long - thủ lãnh của Hội Kín lúc bấy giờ, phía Pháp đã thu
được lá cờ có ghi bốn chữ “Thánh Minh Vương Phật” từ trên xuống và bốn chữ “Bửu
Sơn Kỳ Hương” ở bốn góc [Nguyễn Thanh Tiến 2005: 46]. Chúng ta biết, trước nay
tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã quen thuộc với bốn câu sấm được
lưu truyền là:
“Chữ Bửu là hiệu Phật Vương
Chữ Sơn Phật Thầy tin tưởng phước dư
Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư
Chữ Hương Phật Trùm bốn chữ phải mang”
Nếu Đức Phật Thầy (Đoàn Minh Huyên), Đức Bổn Sư (Ngô Lợi),
Đức Phật Trùm (Tà Pônh) là những nhân vật có thật trong lịch sử và tiếp nối
dòng chảy Bửu Sơn Kỳ Hương, thì Đức Phật Vương lại hoàn toàn bí ẩn. Đức Phật
Vương liệu có liên quan gì đến Ngũ Công Vương Phật và Thánh Minh Vương Phật?
Ngày tai, tại tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là chùa Tam Bửu (thị trấn Ba
Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) có ngôi long đình thờ Đức Phật Vương, bên
trong là bảng gỗ lớn có bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Sơn Nam [1971: 55] nhận
định: “Năm Ông, còn gọi là Chư Vị Năm Ông là ông Quan Đế, Thái tử, Ông Châu,
Trương Tiên, Linh Quan. […] Chùa thờ Năm Ông có thể là trụ sở bí mật của Thiên
Địa hội.”
Khi nghiên cứu văn bản Kinh / Giảng Năm Ông như
đã giới thiệu ở trên, chúng tôi chú ý đến câu: “Cờ đen vàng vải khá may / Cắm
ngay giữa cửa khuyên trai đừng lầm” [Nguyễn Hữu Hiệp 1974: 84], hay: “Cờ đen
vải trắng bìa vàng / Treo ngay giữa cửa đêm khuya giữ gìn” [Nguyễn Văn Sâm
2009: 13]. Nếu chỉ là một bộ kinh giảng khuyên tín đồ tu hành, thì tại sao lại
có việc may lá cờ và treo giữa cửa, phải chăng là tín hiệu của một tổ chức?
Tương tự vậy, Huờn (Hoàn) Sanh kinh là một
bản kinh bằng chữ Nôm có từ lúc Đức Bổn Sư mới mở đạo, trong đó có những đoạn
cũng rất đáng lưu ý: “Huờn sanh trần thế,
lập kế Thánh vương, thân thể nhiễu nhương, người đương thay đổi, phép trời làm
nổi, thân thể nghiêm trang, hỡi kíp lo toan, thay đời lập trị, Phật trời hiệp
nghị, có một hội nầy, có tớ có thầy, trang nghiêm tiên kiểng, chọn xây lựa
tuyển, tống xuống học hành, công sự đã thành, thiên cơ sở định.” Đoạn kinh nói
về việc “đổi đời” theo thuyết tận thế, khi đó đời Hạ nguơn kết thúc và hội Long
Hoa mở ra để lập đời mới Thượng nguơn. Song, nội dung đoạn kinh không khó để
chúng ta liên tưởng đến hoạt động chống Pháp, những nghĩa sĩ “lập kế Thánh
vương” đánh đuổi giặc ngoại xâm để “huờn sanh trần thế”.
Ngoài ra, người tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa
khi gia nhập đạo còn được phát cho một tờ lòng phái, hiểu như giấy
chứng nhận nhập đạo. Ở Thiên Địa hội cũng phát tờ hồng tánh để
chứng nhận người đã nhập hội. Mặc dù về nghi thức gia nhập Thiên Địa hội không
có điểm tương tự Tứ Ân Hiếu Nghĩa, nhưng lá lòng phái có nhiều điểm giống nhau
[Đinh Văn Hạnh 1999: 78].
5. Kết luận
Tục thờ cúng Ngũ Công Vương Phật - Chư Vị Năm Ông trong
tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một hiện tượng đến nay gần như
chưa có công trình nghiên cứu đề cập đến. Tục thờ nầy có nguồn gốc từ văn hóa
Trung Hoa, khi truyền sang Việt Nam trước tiên được người Việt tiếp nhận trong
phạm vi gia đình và xem Năm Ông như thần độ mạng cho gia chủ. Sau đó, Bửu Sơn
Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa lại tiếp tục đưa Năm Ông hệ thống thờ tự của mình
như một đối tượng tín ngưỡng quan trọng.
Hiện tượng nầy không chỉ phản ánh quá trình giao thoa văn
hóa Việt - Hoa trên địa bàn, mà trong bối cảnh buổi đầu Nam Kỳ là thuộc địa, xu
thế đề cao lý tưởng trung nghĩa trở nên nổi bật trong giới sĩ phu hơn bao giờ
hết, vì thế chúng tôi cho rằng việc Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa chọn
Năm Ông để thờ cúng không nằm ngoài xu thế đó. Ngoài ra, với những chứng cứ khá
thuyết phục về mối quan hệ giữa hai tôn giáo nói trên với Thiên Địa hội, việc
thờ cúng Năm Ông có thể còn liên quan đến các hoạt động bí mật trong phong trào
kháng Pháp thời bấy giờ.
Trong phạm vi kiến thức và khả năng có hạn, lại thêm nguồn
tư liệu ít ỏi, bài viết của chúng tôi chỉ xin phân tích tục thờ cúng Năm Ông
với tư cách là một hình thái tín ngưỡng - một khía cạnh trong văn hóa tôn giáo.
Những vấn đề liên quan đến lịch sử xin phép nêu lên như một gợi mở, hy vọng sẽ
được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ thêm.
VĨNH THÔNG
(Bài in trong Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế: Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Tập 1: Văn hóa nhận thức và
tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Đại học Cần Thơ, 2018 & sách Dấu ấn thượng châu thổ,
Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2021)
_______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb Từ Tâm.
2. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ấn Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-1975), Nxb Trẻ.
3. Nguyễn Hữu Hiệp (1974), Tiền giảng Đức Phật Thầy Tây An, Nxb Diễm Chi.
4. Nguyễn Liên Phong (1909), Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Nxb Phát Toán.
5. Nguyễn Văn Kiềm (1966), Tân Châu (1870 - 1964), Tác giả tự xuất bản.
6. Nguyễn Văn Sâm (2009), Kinh Năm Ông, Bản điện tử.
7. Sơn Nam (1971), Miền
Nam đầu thế kỷ XX: Thiên Địa hội và cuộc Minh tân, Nxb Phù Sa.
8. Sơn Nam (1997), Cá
tính Miền Nam, Nxb Trẻ.
9. Nguyễn Thanh Tiến (2005), Hội kín ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch
sử, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.
10. Sư Vãi Bán Khoai (1949), Sấm giảng người đời, Bản photocopy.
11. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, người và đất Việt, Nxb Tri thức.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét