Vàm Cống là phà nối từ huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp sang thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Nói đến địa danh Vàm Cống, lâu nay nhiều người thường giải thích là vàm của một cái cống nào đó. Chúng ta biết, “vàm” là cửa của một dòng nước nhỏ, nơi nó đổ ra sông lớn, nhưng “cống” là gì và ở đâu? Qua đối chiếu các tư liệu từ triều Nguyễn đến thời Pháp thuộc và thực tế hiện nay, chúng tôi xin cung cấp thêm một số thông tin liên quan đến địa danh Vàm Cống. Do điều kiện tư liệu còn hạn chế, những kiến giải dưới đây có thể chưa thật sự hoàn chỉnh. Tác giả hy vọng đó có thể là những thông tin bước đầu đáng ghi nhận.
1. Một kiến giải về địa danh Vàm Cống
Trước
tiên, chúng tôi khảo sát ba bản đồ do người Pháp vẽ: hạt Long Xuyên năm 1886, tỉnh
Long Xuyên năm 1901 và tỉnh Long Xuyên năm 1925. Trong đó, đoạn sông Hậu từ rạch
Long Xuyên đến rạch Cái Sắn có một số cù lao / cồn như sau (Pháp viết không dấu):
- Cồn Ba
Que (Bà Quế) nằm sát bờ Đông (bờ thành phố Long Xuyên ngày nay)
- Một cồn
nhỏ không đọc được tên, nằm sát bờ Tây (bờ huyện Chợ Mới ngày nay)
- Một cồn
nhỏ không đọc được tên, nằm sát bờ Đông, bên dưới cồn Bà Quế.
- Cồn
Cai Cong (có thể là Cái Cống) nằm giữa sông Hậu.
Tuy
nhiên, đối chiếu với thực tế hiện nay, không có cồn nào trên đoạn sông nầy. Cồn
Bà Quế tức cồn Phó Quế đã dịch chuyển và dính vào bờ Long Xuyên trở thành khóm
Phó Quế (phường Mỹ Quý), một số cồn nhỏ có thể đã bị xói mòn, nhưng cồn Cái Cống
sau một thế kỷ đã biến đi đâu? Câu hỏi đó thôi thúc chúng tôi tìm lời đáp.
Tuy
nhiên, đối chiếu với thực tế hiện nay, không có cồn nào trên đoạn sông nầy. Cồn
Bà Quế tức cồn Phó Quế đã dịch chuyển và dính vào bờ Long Xuyên trở thành khóm
Phó Quế (phường Mỹ Quý), một số cồn nhỏ có thể đã bị xói mòn, nhưng cồn Cái Cống
sau một thế kỷ đã biến đi đâu? Câu hỏi đó thôi thúc chúng tôi tìm lời đáp.
Quay lại
bản đồ tỉnh Long Xuyên năm 1901, phía bờ Đông sông Hậu nhìn từ Bắc xuống Nam có
rạch Cái Đôi, rạch Cái Gia, rạch Trường Tiền và cuối cùng là rạch Lấp Vò - cả bốn
cùng đổ ra sông Hậu. Trong đó, rạch Lấp Vò lớn nhứt, chảy từ chợ Lấp Vò đến
sông Hậu, ngày nay còn gọi là rạch Cái Tàu Thượng.
Đối chiếu
với bản đồ vệ tinh của Google hiện nay, cả bốn con rạch đó vẫn còn. Song, điểm đáng
chú ý là, chúng không còn đổ trực tiếp ra sông Hậu như bản đồ năm 1901, mà bị
chắn bởi một cái cồn. Cồn nầy được Google chú thích là cồn An Thạnh, thuộc hai
xã Hòa Bình và Hòa An của huyện Chợ Mới (tỉnh An Giang). Rất có thể nó chính là
cồn Cái Cống đã dịch chuyển về gần bờ Đông sông Hậu hơn so với đầu thế kỷ XX,
nên hiện nay đã án ngữ bốn con rạch nói trên.
Cũng
trên bản đồ năm 1901, có một đường vạch ngang sông Hậu nhưng không ghi chú
thích, vị trí ở dưới cồn Cái Cống và ở trên rạch Cái Sắn. Chúng ta hiểu đây là
một tuyến đường thủy (đò ngang) và dễ dàng nhận ra đó chính là vị trí của phà
Vàm Cống. Như vậy, nơi đây từ trước đã có bến đò tự phát của người dân, đến năm
1925 chánh quyền Pháp mới xây dựng bến bắc Vàm Cống. Từ “bac” trong tiếng Pháp nghĩa
là phà, người Nam Kỳ quen gọi là “bắc”.
Đến đây,
một số vấn đề khác lại tiếp tục được đặt ra. Chẳng hạn, làm sao khẳng định cồn
An Thạnh chính là cồn Cái Cống? Nếu cồn Cái Cống từ đầu thế kỷ XX đến nay đã
thay đổi cả địa hình lẫn địa danh, vậy trước thế kỷ XX nó từng như thế nào?
Chúng tôi tiếp tục tra cứu các thư tịch triều Nguyễn và phát hiện một số chi tiết
có liên quan cũng không kém phần quan trọng.
2. Sự thay đổi địa giới thôn An Hòa
Các sách
địa chí khi đề cập đến khu vực nầy đều không thấy địa danh Cái Cống. Chỉ riêng Địa bạ tỉnh An Giang lập năm 1836 dưới triều Minh Mạng có chi tiết: “An
Hòa thôn ở ba xứ Cái Súc, Châm Ba châu, Cái Cùng” [Nguyễn Đình Đầu 1995: 229].
Về mặt từ ngữ, rõ ràng Cái Cùng gần với Cái Cống, có thể người Pháp khi viết địa
danh bằng hệ chữ Latinh đã có sự nhầm lẫn.
Thôn An
Hòa từ triều Nguyễn đến thời Pháp cơ bản không có nhiều thay đổi. Trung tâm của
thôn là phần đất bờ Đông sông Hậu (đối diện thành phố Long Xuyên ngày nay) với
diện tích lớn, ngoài ra còn có phần đuôi cù lao Ông Hổ và vài cồn bãi nhỏ trên
sông. Năm 1916, phần đuôi cù lao Ông Hổ tách ra khỏi làng An Hòa để nhập với
hai làng Mỹ Hội Tiểu và Hưng Châu thành làng Mỹ Hòa Hưng (nay là xã Mỹ Hòa
Hưng, thành phố Long Xuyên). Lúc nầy, làng An Hòa chỉ còn phần đất bờ Đông sông
Hậu và một số cồn bãi trên sông.
Năm 1939,
làng An Hòa nhập với làng Bình Thành Tây thành làng Hòa Bình. Năm 1979, xã Hòa
Bình lại tách thành hai xã là Hòa Bình và Hòa An, trong đó xã Hòa Bình gần
tương ứng với làng An Hòa xưa và xã Hòa An gần tương ứng với làng Bình Thành
Tây xưa. Ngày nay, dấu tích còn lại liên quan tới địa danh thôn An Hòa
chính là bến phà An Hòa, nối từ thành phố Long Xuyên sang huyện Chợ Mới. Địa bạ tỉnh An Giang cho biết cồn Cái
Cùng thuộc thôn An Hòa, mà cồn An Thạnh ngày nay thuộc hai xã Hòa Bình và Hòa
An là hậu thân của thôn An Hòa, vậy cồn An Thạnh cũng là hậu thân của cồn Cái
Cùng (Cái Cống).
Thế nhưng, nếu tiếp tục lấy Cái Cùng làm từ
khóa để tra cứu, chúng tôi nhận thấy các thư tịch ra đời trước Địa bạ tỉnh An Giang (1836) đều không xuất
hiện địa danh nầy.
3. Những ghi chú về các cù lao
Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806)
chép: “500 tầm, phía bên phải sông có cồn, tục gọi là cù lao Cái Phí, phía trên
giáp rạch Cái Đôi, trên đó có dân cư, đến rạch Cái Phí, rạch ở phía trái […]
500 tầm, giữa sông có cồn, tục gọi là cù lao Bần, phía dưới giáp với rạch Cá Hồ,
trên đó không có dân cư, đến rạch Lấp Vò, rạch ở phía bên trái” [Lê Quang Định
2005: 331].
Gia Định thành thông chí (1820) chép: “Cù
lao Bí: Ở phía tây sông Cường Thành, hạ lưu Hậu giang. Trên giáp cù lao Châm
Pha và là ruộng vườn thôn An Hòa, dưới giáp cù lao Thủy Liễu” [Trịnh Hoài Đức
1972: 100]. Trong đó, cù lao Thủy Liễu được nhắc đến ở đây chính là tên gọi được
sử gia “Hán hóa” từ địa danh dân gian là cù lao Bần.
Thông
tin từ hai tài liệu nói trên khá tương đồng, đó là cù lao Cái Bí nằm trên và cù
lao Bần nằm dưới. Song, khi đem những thông tin nầy so sánh với Địa bạ tỉnh An Giang dưới triều Nguyễn và
với bản đồ thời Pháp lại có sự khác biệt. Theo Địa bạ tỉnh An Giang, “An Hòa thôn ở ba xứ Cái Súc, Châm Ba châu,
Cái Cùng” và “Bình Thành Tây thôn ở năm xứ Tây An, Thủy Liễu, Thông Đạo, Tang
Điền, Thủ Ngãi” [Nguyễn Đình Đầu 1995: 229]. Điều đó có nghĩa là cù lao Cái
Cùng nằm trên và thuộc thôn An Hòa, cù lao Bần nằm dưới và thuộc thôn Bình
Thành Tây. Thế nhưng, bản đồ lại thể hiện cù lao Cái Bí nằm trên và thuộc thôn
An Hòa, cù lao Cái Cùng nằm dưới và thuộc thôn Bình Thành Tây.
Rõ ràng
là từ đầu triều Nguyễn đến thời Pháp thuộc, hai cù lao cơ bản không thay đổi về
địa hình, nhưng lại xuất hiện đến ba địa danh. Trong đó, chắc chắn tên cù lao
Cái Bí chỉ được sử dụng cho cù lao phía trên và tên cù lao Bần chỉ được sử dụng
cho cù lao phía dưới. Riêng tên cù lao Cái Cùng lại không rõ ràng, vào triều
Nguyễn nó được dùng để chỉ cù lao phía trên, nhưng thời Pháp nó lại được dùng để
chỉ cù lao phía dưới.
Chúng ta
không thể khẳng định Địa bạ tỉnh An Giang đã nhầm hay bản đồ thời
Pháp đã nhầm, chỉ biết rằng dưới thời Pháp thuộc, cù lao Bần được ghi tên là cù
lao Cai Cong. Nếu đã xác định sự tồn tại của cù lao Cái Bí và cù lao Bần, đồng
thời biết được trong hai cù lao ấy có một được gọi là Cái Cùng / Cái Cống và nó
chính là cồn An Thạnh ngày nay, vậy một còn lại đã đi đâu?
Câu trả
lời là nó không đi đâu cả. Theo Hoàng Việt
nhất thống dư địa chí, cù lao Cái Bí nằm bên phải sông và phần đầu ngang với
rạch Cái Đôi, cù lao Bần nằm giữa sông và phần đầu ngang với rạch Cái Bí. Hiện
nay hai con rạch nầy vẫn còn, nếu lấy chúng đối chiếu với thực địa thì ngang rạch
Cái Đôi là đầu cồn An Thạnh và ngang rạch Cái Bí vẫn là cồn An Thạnh. Tại vị
trí ngang rạch Cái Bí, trên cồn An Thạnh có một con rạch nhỏ chia cồn làm hai
phần: 2/3 phía trên thuộc xã Hòa Bình (thôn An Hòa xưa) và 1/3 phía dưới thuộc
xã Hòa An (thôn Bình Thành Tây xưa). Điều nầy phù hợp với các thư tịch triều
Nguyễn: cù lao trên thuộc thôn An Hòa, cù lao dưới thuộc thôn Bình Thành Tây.
Như vậy, chính cù lao Bần đã dịch chuyển vừa gần về bờ Đông, vừa sát vào cù lao
Cái Bí.
4. Vĩ thanh
Tóm lại,
qua những phân tích bên trên, có thể nhận định khu vực các cù lao phía trên phà
Vàm Cống đã không chỉ thay đổi về địa danh mà cả địa hình. Dưới triều Gia Long,
cù lao Cái Bí nằm gần bờ Đông sông Hậu thuộc thôn An Hòa, dưới nó là cù lao Bần
nằm giữa sông Hậu thuộc thôn Bình Thành Tây. Đến triều Minh Mạng, cù lao Cái Bí
được ghi tên là cù lao Cái Cùng. Thời Pháp thuộc, địa hình không thay đổi nhiều
nhưng địa danh đã khác, lúc nầy cù lao Bần được ghi tên trên bản đồ là cù lao
Cai Cong (tức Cái Cống - xuất phát từ Cái Cùng).
Hiện
nay, cù lao Cái Cống đã dịch chuyển gần bờ Đông sông Hậu và sát vào cù lao Cái
Bí, trở thành cồn An Thạnh. Trong đó, 2/3 phía trên thuộc xã Hòa Bình tương ứng
với cù lao Cái Bí thuộc thôn An Hòa xưa, 1/3 phía dưới thuộc xã Hòa An tương ứng
với cù lao Bần thuộc thôn Bình Thành Tây xưa, giữa hai phần nầy có một con rạch
cắt ngang chính là dấu tích còn lại từ hai cù lao ngày trước.
MÔ TẢ |
Cù
lao phía trên, |
Cù
lao phía dưới, |
|
THAY |
1806 |
Cù
lao Cái Bí |
Cù
lao Bần |
1836 |
Cù
lao Cái Cùng |
Cù
lao Bần |
|
1901 |
Cù
lao Cái Bí |
Cù
lao Cái Cùng |
|
2019 |
Cồn
An Thạnh |
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tập san Đồng Tháp xưa & nay, số 66, 2019)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét