Người Hoa là một trong những tộc người có mặt ở Nam Bộ - Việt Nam từ khá sớm và có nhiều đóng góp vào kho tàng văn hóa phong phú trên vùng đất mới nầy. Thành phố Châu Đốc (tỉnh An Giang) cũng là một trong những nơi tập trung đông đảo người Hoa sinh sống. Họ còn bảo lưu nhiều hình thái tín ngưỡng - tôn giáo đa dạng, trong đó đặc biệt có nghi thức nhập đồng của nhóm phương ngữ Triều Châu. Đây là hình thức ma thuật kết nối giữa thế giới thiêng và phàm, thể hiện quyền uy của thần thánh và củng cố niềm tin cho con người.
Thực hành tín ngưỡng nói trên được người Triều Châu mang đến Nam Bộ và duy trì hơn hai thế kỷ, có mặt ở gần như hầu hết các địa phương mà họ sinh sống và trở thành sinh hoạt văn hóa đặc trưng của cộng đồng. Trong bài viết nầy, chúng tôi nghiên cứu về nghi lễ nhập đồng của người Hoa ở thành phố Châu Đốc và một số địa bàn lân cận, đặc biệt là những nơi tập trung đông đảo người Hoa Triều Châu sinh sống. Nội dung nghiên cứu của chúng tôi tập trung phân tích diện mạo, đặc trưng và giá trị của nghi thức nhập đồng nầy trong văn hóa tộc người Hoa ở không gian nêu trên.
1. Khái quát về nghi thức nhập đồng của người Hoa
Trong nghiên cứu văn hóa, thuật ngữ ma thuật được dùng để chỉ những hình thức vận dụng các năng lực tâm
linh kỳ bí của con người tác động vào tự nhiên để tạo ra những hiện tượng không
thể giải thích được. Theo Sigmund Freud, ma thuật là phương tiện dùng để tác
động đến thần linh, bộ phận khởi nguyên và có ý nghĩa hàng đầu của kỹ thuật vạn
vật hữu linh, sử dụng những phương pháp đặc biệt hơn những phương pháp tâm lý
học tầm thường… [Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 2006: 126]. Một cách đơn giản hơn, ma thuật có thể được
hiểu là “nghệ thuật thực hiện các hành động thông qua động tác, lời nói, thần
chú mang tính huyền bí của thầy cúng, thầy pháp có khả năng giao tiếp với lực
lượng siêu nhiên để đạt được mục đích mong muốn” [Nguyễn Thị Hiền 2014: 61]. Ở
Việt Nam hiện nay khi nói đến ma thuật, người ta thường biết đến hoạt động lên
đồng, hành xác, bùa chú, cầu đảo, ban phép…
Nhập đồng còn được dân gian gọi là lên đồng, lên xác, nhập
xác… là hiện tượng được cho rằng thần thánh hay vong hồn người quá cố nhập vào
thân xác một người nào đó để răn dạy, giải đáp, phò hộ… cho dân chúng. Người
nhập đồng (shaman) có vai trò làm trung gian trong giao tiếp thiêng - phàm.
Theo các nhà nghiên cứu, nhập đồng có mặt ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt ở
các dân tộc vùng Nam Phi, Nam Mỹ, Đông Nam Á, Nam Trung Hoa… [Từ
Thị Loan 2016: 48]. Tiếp cận phân tâm học trong nghiên cứu văn hóa, Carl Jung
đưa ra lý thuyết vô thức tập thể để
lý giải trạng thái nầy. Ông cho rằng khi đó “con người bộc lộ những khả năng,
chứng minh những hiểu biết, vốn thiếu vắng ở họ trong trạng thái bình thường” [A.A.
Belik 2000: 101].
Theo tư liệu điền
dã của chúng tôi tại địa phương, nghi thức nhập đồng của người Hoa bắt nguồn từ
tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương. Tín ngưỡng nầy ra đời trên địa bàn sinh sống của
những người nói tiếng Triều Châu. Cụ thể, đó là phạm vi ba thành phố Yết Dương,
Triều Châu, Sán Đầu thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ngày nay và được gọi
chung là vùng Triều Sán. Tam Sơn Quốc Vương là ba vị sơn thần của ba ngọn núi
Cân Sơn, Minh Sơn và Độc Sơn ở vùng nầy. Thế danh của thần Cân Sơn là Liên Kiệt,
thần Minh Sơn là Triệu Hiên và thần Độc Sơn là Kiều Tuấn. Ba vị cai quản vùng
núi Tam Sơn từ thời nhà Tùy (581 - 619) và về sau thường xuyên hiển linh.
Bên cạnh đó còn
nhiều giai thoại dân gian khác về Tam Sơn Quốc Vương. Chẳng hạn chuyện kể năm
970, khi quân Tống khi tiến đánh Nam Hán, [1] Tống Thái Tổ Triệu Khuôn Dận đã cầu
xin Tam Sơn Quốc Vương phò hộ. Sau khi thắng trận, vua sắc phong cho thần Cân
Sơn là Thanh Hóa Uy Đức Báo Quốc Vương, thần Minh Sơn là Trợ Chánh Minh Túc
Ninh Quốc Vương và thần Độc Sơn là Huệ Uy Hoằng Ứng Ninh Quốc Vương [Lâm Thanh
Quang 2017: 5]. Một câu chuyện khác kể rằng ba ông vốn kết nghĩa huynh đệ với
nhau và tu hành trên núi, nhờ có công cứu giá Tề Vương đi tuần gặp nạn, nên được
vua phong vương và cho cai quản vùng núi Tam Sơn để cứu nhân độ thế [Lâm Tâm
1994: 98-99].
Đây là một hình
thái tín ngưỡng đặc thù của người Triều Châu, bắt nguồn từ quan niệm sùng bái
núi non của cư dân Hoa Nam cổ xưa. Ngày nay, ngôi miếu trung tâm của tín ngưỡng
nầy là Tam Sơn tổ miếu, tọa lạc ở
nhai đạo Hà Bà, huyện Yết Tây, thành phố Yết Dương, tỉnh Quảng Đông. Ngoài ra,
tín ngưỡng nầy còn phát triển mạnh mẽ ở khu vực phía Đông của tỉnh Quảng Đông,
Hồng Kông, Đài Loan… và những quốc gia mà người Trung Hoa di cư đến như
Singapore, Malaysia, Cambodia, Thái Lan, Việt Nam…
Người Hoa Triều Châu đi đến đâu cũng duy trì và phát triển
tín ngưỡng nầy. Tuy
nhiên khi xa quê cũ, các nhóm người Hoa sống gần gũi nhau hơn dẫn đến ảnh hưởng
qua lại, nên nghi thức nhập đồng được một số cộng đồng tiếp nhận và đưa vào lễ
cúng những thần linh khác (Quan Đế, Thiên Hậu, Cảm Thiên Đại Đế…). Dấu hiệu nhận
diện những ngôi miếu có nhập đồng là ba chiếc ghế sơn màu đỏ được đặt trong
chánh điện, một ghế có gắn nhiều lưỡi dao và hai ghế có gắn nhiều đinh nhọn. Điểm
đặc biệt trong nghi thức nhập đồng của họ là các hình thức “hành xác”. [2] Người
nhập đồng xẻ lưỡi lấy máu vẽ bùa, xỏ cây qua miệng, đập trái đinh vào người, ngồi
ghế dao, đi trên than lửa… Sau khi nghi lễ kết thúc, người ta không phát hiện vết
thương trên cơ thể họ.
Ngày nay, nhập đồng vẫn còn tìm thấy ở
các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Bình Dương… Tại thị xã Vĩnh
Châu - tỉnh Sóc Trăng, Phước Đức cổ miếu
(dân gian gọi là chùa Xà Bế) cũng thờ Ông Bổn là Tam Sơn Quốc Vương và có nghi
thức nhập đồng, trong lễ cúng Cảm Thiên Đại Đế ở Thanh Hòa cổ miếu cũng có nghi thức nhập đồng với ba chiếc ghế như
trên. Ở huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh, vào lễ Vu lan hằng năm, sáu ngôi miếu thờ
Ông Bổn đều có nghi thức nhập đồng (Vạn
Niên Phong cung, Minh Đức cung, Vạn Ứng Phong cung, Thiên Đức cung, Vạn Đức Phong
cung, Niên Phong cung). Tại huyện
đảo Phú Quốc - tỉnh Kiên Giang, nghi lễ nầy xuất hiện ở Huê Quang Đại Đế miếu (tên dân gian là chùa Ông Gành Gió). Tại
thành phố Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương, có hình thức nhập đồng ở Phước An miếu thờ Thất Phủ Đại Nhân của
người Phước Kiến. Với tỉnh An Giang, nghi lễ nầy có mặt ở thành phố Châu Đốc (Tam Sơn miếu), thị xã Tân Châu (Quan Đế miếu) và huyện An Phú (Nhị Vương miếu).
2. Đặc điểm nghi thức thập đồng của người Hoa ở Châu Đốc
2.1. Nhập đồng trong tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương
Miếu Tam Sơn ở phường Vĩnh Mỹ có niên đại khoảng 200 năm.
Dân gian kể rằng, những người Triều Châu đầu tiên đến Châu Đốc đã mang theo ba
pho tượng của Tam Sơn Quốc Vương và lập miếu thờ: miếu Nhứt Vương ở thành phố
Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), [3] miếu Nhị Vương ở xã Đa Phước (huyện An Phú) và
miếu Tam Vương ở phường Vĩnh Mỹ (thành phố Châu Đốc) đều thuộc tỉnh An Giang.
Ngoài ra, người Hoa ở Châu Đốc còn lưu truyền một giai thoại khác. Họ kể rằng
nơi đây ngày xưa vốn là miễu nhỏ ven đường thờ Thổ Thần, một lần nọ có người
phụ nữ bị tà nhập hóa điên, khi đi ngang miếu đã vào xin nhập đồng trị bịnh.
Bấy giờ có một người Minh Hương bán rau cải đã nhập đồng và xưng là Sam Quán
Lái, rồi dùng hình thức ma thuật chữa khỏi cho người nữ ấy [Tư liệu điền dã
2017].
Mặc dù đối tượng được thờ chánh trong miếu là Tam Sơn Quốc
Vương, nhưng người dân địa phương thường gọi ngôi miếu là miếu Ông Bổn. Sở dĩ
có hiện tượng nầy vì Ông Bổn hay Bổn Đầu Công là một vị thần mang tính biểu
tượng chứ không hẳn là nhân vật lịch sử cụ thể. Người Hoa xem Ông Bổn là phúc
thần của vùng đất sở tại, có vai trò bảo hộ cộng đồng, tương tự Thành Hoàng của
người Việt hay Neak Ta của người Khmer. Mặc dù mỗi cộng đồng người Hoa từng nơi
có quan niệm riêng về Ông Bổn, nhưng chung quy họ vẫn xem đây là vị thần mang
lại cuộc sống ấm no cho mọi người.
Ông Bổn đôi khi được đồng nhứt với Trịnh Hòa (1371 - 1433),
một viên quan triều Minh cũng là nhà hàng
hải nổi tiếng của Trung Quốc, chỉ
huy các chuyến thám hiểm nhiều nơi trên thế giới. Có nơi lại cho rằng Ông Bổn
là Châu Đạt Quan (1266 - 1346),
một vị quan triều Nguyên từng là sứ thần sang Chân Lạp và để lại tác phẩm nổi
tiếng Chân Lạp phong thổ ký. Nguyễn Hữu Hiếu [2010: 137] cho biết
với người Triều Châu và Hải Nam thì Ông Bổn là chức Bổn Đầu Công của Trịnh Hòa,
người Phước Kiến cho Ông Bổn là Châu Đạt Quan. Nhiều nơi khác, người Hoa đồng
nhứt Ông Bổn với Thổ Thần, Phước Đức Chánh Thần, Tam Sơn Quốc Vương…
Tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa [1984: 195-196] phân tích: “Đồng
bào Hoa quan niệm Ông Bổn là vị thần cai quản một khu vực đất đai và cả những
con người sống trên địa vực đó. Nói cách khác, họ quan niệm đây là một vị thổ
thần. Đối với các cư dân nông nghiệp, cũng như đối với đồng bào Hoa có nguồn
gốc là nông dân, vị thần đất chính là vị thần đem lại của cải, sự giàu có,
thịnh vượng, hạnh phúc và sự bình yên cho mọi người. […] Tín ngưỡng Ông Bổn,
mặc dù có nguồn gốc xa xưa là tục thờ thần đất của các cư dân nông nghiệp Đông
Nam Á, đã bị phong kiến hóa phần nào và đã được người di dân Hoa nhân cách
hóa…”
Trong nghi thức nhập đồng ở miếu Tam Sơn, người nhập đồng
thường là người cố định, được gọi là xác đồng hay phần
xác. Dân chúng xem đó là “người được chọn”, nghĩa là do “bề trên” chỉ
định và không ai có quyền thay đổi. Nếu phần xác qua đời, thần linh sẽ chọn
người phù hợp khác. Về diễn tiến, ban đầu xác đồng ở trần và mặc quần dài
trắng, đứng trước bàn thờ chánh để cầu nguyện. Sau khi Ông Bổn về xác (nhập vào xác), xác đồng sẽ bôi mặt
bằng bột màu đỏ, mặc vào người bộ trang phục màu đỏ và đội mão đỏ. Theo truyền
thuyết, do ba ngọn núi Minh Sơn - Độc Sơn - Cân Sơn lần lượt có ba màu xanh -
trắng - đỏ, nên hình tượng Tam Sơn Quốc Vương được thể hiện với gương mặt có ba
màu trên. Buổi lễ nếu phần xác bôi mặt đỏ và mặc trang phục đỏ là Tam Vương về
xác.
Tiếp đến, xác đồng sẽ múa đao, múa kiếm, múa võ… Ông dùng
dao xẻ vào lưỡi cho ra máu, liếm lưỡi vào nhiều mảnh giấy nhỏ màu vàng cho máu
thấm vào - chúng sẽ trở thành những lá bùa được người dân thỉnh về sau đó. Theo
lời kể dân gian, trước đây ngoài xẻ lưỡi lấy máu, xác đồng còn cắt một phần
chót lưỡi ra, cho vào dĩa rồi lấy cái chung úp lại. Khi xong buổi lễ, ông lấy
chót lưỡi gắn lại vào miệng thì sẽ tự lành.
Sau nghi thức ở chánh điện, ghế dao hoặc ghế đinh sẽ được
xác đồng ngồi lên, thanh niên khiêng ghế ông diễu hành quanh xóm, gọi là đi nghinh. Khi đi nghinh, xác đồng sẽ
xỏ một cây xiên quai từ má nầy trổ sang má kia, cầm kiếm trên tay, cổ đeo trái
đấm (khối tròn làm từ gỗ và đóng nhiều đinh nhọn xung quanh). Qua những nơi ô
uế (bịnh viện, nghĩa địa, chuồng gia súc…) thì Ông Bổn sẽ rời phần xác, phải có
người đi bên cạnh đọc bài triệu để
mời ông lại. Ngày nay hành trình đi nghinh rút ngắn chỉ còn từ miếu ra bờ sông
Hậu rồi quay về miếu.
Để liên hệ mở rộng, chúng tôi giới thiệu sơ lược về nghi
thức nhập đồng ở Nhị Vương miếu tại
xã Đa Phước - huyện An Phú, đối diện với thành phố Châu Đốc bên kia sông Hậu.
Nhị Vương là một trong Tam Sơn Quốc Vương, nhưng sau năm 1975 do sợ chánh quyền
mới gây khó dễ nên các cụ cao niên ở miếu đã sửa lại giai thoại. Họ kể rằng,
Nhị Vương là ẩn sĩ tên Lương Hà, đã cùng với hai anh em kết nghĩa giúp Đinh Bộ
Lĩnh trong một lần bị vây bắt. Sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng phong cho ba
ông là Nhứt Vương, Nhị Vương và Tam Vương.
Miếu Nhị Vương có kiến trúc đơn giản, nội thất có cấu trúc
thờ tự điển hình của người Hoa là bộ ba Thiên
Hậu - Phước Đức Chánh Thần - Quan Đế. Trong những lần nhập đồng ở nơi
đây, phần xác cũng bôi mặt, xỏ xiên quai, ngồi ghế đinh và ghế dao…
tương tự miếu Tam Sơn. Tuy nhiên, nếu như miếu Tam Sơn chỉ có một xác đồng cố
định, thì ở miếu Nhị Vương có tính đồng
tham dự của cộng đồng. Bên cạnh “người được chọn”, hiện tượng nhập
xác còn xuất hiện ở nhiều dân thường tham dự buổi lễ.
2.2. Nhập đồng trong tín ngưỡng Quan Công
Như đã trình bày ở trên, nghi thức nhập đồng trong tín
ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương của người Triều Châu được một số nhóm phương ngữ khác
hoặc một số hình thái tín ngưỡng khác tiếp nhận. Ở khu vực Châu Đốc, điển hình
cho trường hợp nầy là nghi thức nhập đồng ở miếu Quan Đế ở phường Châu Phú A và
miếu Quan Đế ở xã Mỹ Đức (huyện Châu Phú) [4] cách đó không xa. Quan Đế miếu ở phường Châu Phú A
ra đời năm 1847 còn Quan Đế
miếu ở xã Mỹ Đức ra đời khoảng thập niên 1880 và đến năm 1895 được
xây dựng lại kiên cố.
Trong những lần nhập xác, có khi một phần xác được một
vị thần nhập vào, nhưng cũng có khi nhiều phần xác được nhiều vị thần nhập cùng
một lúc. Họ xưng danh tánh là Quan Công, Quan Bình, Châu Xương, Chánh Soái Đại
Càn, Ông Hổ… Sau khi được thần linh nhập, xác đồng bắt đầu múa đao, múa kiếm,
phun trà và rượu quanh chánh điện. Trong lúc diễn ra nghi thức, xác đồng sẽ
dùng một cây xiên quai xỏ từ má bên nầy trổ sang má bên kia và giữ nó trong
suốt thời gian nghi lễ.
Người
nhập đồng bắt đầu thực hiện nhiều hình thức “hành xác” như cắt lưỡi lấy máu vẽ
bùa lên những mảnh giấy nhỏ màu vàng để ban phát cho dân chúng. Có khi ông thọc
tay vào nồi nước sôi rồi tát nước lên mình, đi chân không trên than lửa, dùng
trái đấm đập vào cơ thể… Trái
đấm là một quả tròn được bào nhẵn từ gỗ, người ta đóng đinh chi chít vào rồi
mài cho đầu đinh thật nhọn. Người nhập xác sẽ cầm hai trái đấm trên hai tay và
đập nó thật mạnh vào cơ thể mình.
Ngoài nghi thức diễn ra ở miếu còn có hoạt động đi nghinh để diễu hành xung
quanh làng. Phần xác sẽ ngồi lên những chiếc ghế dao hoặc ghế đinh và được các
thanh niên cùng nhau khiêng đưa ông đi. Trên đường gặp những nơi dơ bẩn thì ông
phóng nhang để tẩy uế hoặc kêu đệ tử đi trước để cắm nhang tẩy uế rồi đoàn rước
mới đến sau.
Trước hoặc sau lúc đi nghinh, người dân có thể đến hỏi về
những chuyện gia đạo, làm ăn, rủi ro, bịnh tật… và sẽ lần lượt được ông giải
đáp. Khi nào không còn ai hỏi gì nữa, vị thần sẽ tự xuất khỏi phần xác. Lúc sắp
thăng, ông họa một đạo bùa dán vào má rồi rút cây xiên quai ra, trên má ông
không có lỗ thủng. Sau khi nghi lễ kết thúc, cơ thể xác đồng không để lại bất
kỳ vết thương hoặc vết máu. Điều đặc biệt là bộ quần áo vải mà người ấy mặc
cũng không có vết rách, mặc dù họ đã dùng trái đấm đánh vào người và đã ngồi trên
ghế dao, ghế đinh.
Sau năm 1975,
nhập đồng ở cả hai miếu Quan Đế không được chánh quyền địa phương cho phép thực
hiện. Song, nghi thức nhập đồng Quan Đế đã ảnh hưởng đến tín ngưỡng dân gian của
người Việt trên địa bàn Châu Đốc và đến nay vẫn còn được duy trì. Đó là trường
hợp miếu Âm Nhơn ở phường Núi Sam. Vào rằm tháng Giêng hằng năm, miếu Âm Nhơn tổ
chức Cầu an Thượng nguơn, trong đó có nghi thức Hành binh. Ba người đàn ông sẽ nhập đồng ba vị Quan Công, Quan
Bình, Châu Xương và diễu hành quanh núi Sam với ý nghĩa rước các cô hồn về miếu
để cúng tế. Hành trình bắt đầu từ buổi trưa và quãng đường chỉ khoảng 5 km, tuy
nhiên do số lượng người dân tham gia đông đảo nên đoàn diễu hành đến tối mới trở
về miếu.
3. Chức năng của nhập đồng trong văn hóa tộc người Hoa ở
Châu Đốc
Từ góc nhìn chức năng
luận, Malinowski với tác phẩm kinh điển Ma thuật, khoa học và tôn
giáo đã phân chia hai phạm trù: cái thiêng (tôn giáo và ma thuật) và
cái trần tục (khoa học). Ông cho rằng không có một nhóm người nào dù nguyên
thủy đến đâu mà không có tôn giáo và ma thuật, cũng không có một chủng tộc dù
mông muội đến mức nào lại không có quan điểm khoa học [Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam 2006: 147]. Trong mối quan hệ với ma thuật, tôn giáo góp phần định
hướng các giá trị đạo đức truyền thống và khoa học đóng vai trò hỗ trợ những
phương pháp thực tiễn.
Nhìn vào hình thức nhập đồng của người Hoa Triều Châu, có
thể thấy yếu tố tôn giáo và khoa học đã tác động hai chiều vào ma thuật. Về
phía tôn giáo, các phương thức ma thuật được lồng ghép vào tín ngưỡng (tôn giáo
sơ khai) và được định hướng bởi những giá trị đạo đức từ tín ngưỡng - tôn giáo.
Về phía khoa học, các phương thức trị liệu dân gian thông qua những năng lực
tiềm ẩn của con người đã được vận dụng vào ma thuật, đó là một dạng khoa học
nguyên thủy - nói theo cách của Malinowski là “nguyên lý sơ đẳng của khoa học”.
Xuất hiện từ thập niên 1960 gắn với tên tuổi của Victor
Turner và Clifford Geertz, lý thuyết biểu
tượng và diễn giải cho rằng văn hóa được kết nối với nhau bằng hệ thống các
biểu tượng và mỗi biểu tượng mang ý nghĩa riêng, từ đó họ tiến hành diễn giải ý
nghĩa của các biểu tượng được thu thập từ thực tế. Một trong những hệ thống
biểu tượng được các nhà nghiên cứu quan tâm là biểu tượng nghi lễ.
Nghi lễ được Victor Turner đánh giá là một cách thức riêng
để con người điều chỉnh bản thân và giải quyết các mâu thuẫn, sự ổn định của
cộng đồng được duy trì không nằm ở cách tổ chức xã hội mà nằm ở các yếu tố tôn
giáo trừu tượng được biểu hiện qua nghi lễ [Phạm Quỳnh Phương & Hoàng Cầm
2013: 41]. Vận dụng quan điểm nầy vào nghi lễ nhập đồng, có thể thấy đây là một
dạng thực hành tín ngưỡng dưới hình thức ma thuật mang màu sắc thần quyền, vừa
thể hiện quyền uy của thần linh với dân chúng, vừa tạo niềm tin tâm lý cho họ.
Từ đó, nó góp phần duy trì sự ổn định và thúc đẩy sự vận hành của xã hội.
Người nhập đồng được xem là biểu tượng cho sức mạnh và quyền
năng của thần linh. Các biện pháp ma thuật trong lúc xuất thần cùng với những
lá bùa được vẽ bằng máu từ lưỡi người nhập đồng trở thành những biểu tượng tâm
lý trị liệu tập thể mang lại tác dụng quan trọng. Sau những nghi lễ đó, dân
chúng mặc nhiên ngầm quy ước với nhau phải tin tưởng vào vị thần chung của cộng
đồng đang tôn thờ, từ đó không dám phá vỡ những nguyên tắc cộng đồng, nhờ vậy tính
bền vững của cộng đồng được đảm bảo.
Những trạng thái xuất thần được nhận định đã đóng vai trò có
ý nghĩa trong sự hình thành con người như một thành viên của cộng đồng, những
nghi thức đó giúp đạt tới mối tương quan tối ưu giữa đơn độc và giao tiếp những
nhu cầu quan trọng hàng đầu của đời sống con người [A.A.
Belik 2000: 239]. Qua hình thức nhập đồng của người Hoa, có thể thấy đây là sự
sử dụng kết hợp các phương thức khai thác tiềm năng bí ẩn của con người nhằm
đáp ứng nhu cầu tâm lý và giúp điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, từ đó góp
phần duy trì sự ổn định cho cộng đồng.
4. Kết luận
Đối với người Hoa gốc Triều Châu cư trú ở Châu Đốc, họ xem
Tam Sơn Quốc Vương là Ông Bổn của cộng đồng mình. Đây là tín ngưỡng bản địa
được họ mang theo hành trình di cư đến nhiều nơi, nó thể hiện tâm thức hướng về
nguồn cội bởi đó là ba vị thần cai quản ba ngọn núi ở quê cũ của họ. Cùng với
tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương, nghi thức nhập đồng cũng đã tồn tại hàng trăm
năm từ khi người Hoa có mặt ở Châu Đốc, trở thành một trong những sắc thái văn
hóa đặc thù, góp phần nhận diện cộng đồng người Hoa nhóm phương ngữ Triều Châu.
Nếu nói rằng “khám phá bản sắc nghĩa là tìm hiểu chúng ta
nhìn nhận bản thân như thế nào và những người khác nhìn thấy chúng ta như thế
nào” [Chris Barker 2011: 298], thì có thể dễ dàng nhận thấy tín ngưỡng - tôn
giáo đóng vai trò quan trọng trong diễn trình kiến tạo bản sắc của mỗi cá nhân
và góp phần hình thành bản sắc tập thể. Bởi lẽ, tín ngưỡng - tôn giáo mang
trong mình chức năng cố kết mối liên hệ giữa các thành viên trong cộng đồng,
đồng thời lại vừa chi phối tư tưởng và đời sống tâm lý xã hội của cộng đồng ấy.
Chúng thực sự là môi trường tạo cho mỗi thành viên nhận thức được sự “thuộc về”
của bản thân trong cộng đồng và thúc đẩy sự hình thành những đặc tính chung của
cộng đồng đó.
Tuy nhiên, những thách thức cũng được đặt ra trong việc bảo
vệ bản sắc văn hóa cộng đồng. Sau năm 1975, sự chuyển đổi giữa hai chể thể
chánh trị khác nhau đã ảnh hưởng đến sự biến đổi văn hóa tộc người. Theo nghiên
cứu của Hoàng Cầm và Phạm Quỳnh Phương [2012: 73-75], do cách nhìn nhận về sự
đa dạng của các thực hành văn hóa theo tiến hóa luận nên trong một thời gian
dài, các tộc người thiểu số phải từ bỏ nhiều thực hành văn hóa bị cho là mê tín
dị đoan. Bởi lẽ, văn hóa của tộc người thiểu số ở Việt Nam bị quy chiếu theo
tiêu chuẩn của tộc người đa số, nên nhiều thực hành văn hóa truyền thống bị
định hướng theo các nhận thức của những người làm công tác quản lý. Đối với
trường hợp người Hoa ở Châu Đốc, điển hình là sự mai một của nghi thức nhập
đồng.
VĨNH THÔNG
(Bài in
trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Tập 2:
Văn hóa tổ chức đời sống, Nxb Đại học Cần Thơ, 2018 & sách Dấu ấn thượng châu thổ, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2021)
_____________
CHÚ THÍCH:
1. Nam Hán (917 - 971) tồn
tại trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, lãnh thổ tương ứng vùng cực Nam Trung Quốc
hiện nay. Kinh đô Nam Hán ở Hưng Vương phủ, nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh
Quảng Đông.
2. Báo chí thường viết “lễ
hội hành xác” là không chính xác, vì “hành xác” chỉ là một hoạt động có mặt
trong các lễ hội, chứ không phải tên lễ hội.
3. Giai thoại nầy do người
Hoa ở Châu Đốc cung cấp, trên thực tế đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm được thông
tin chính xác về ngôi miếu ở Hà Tiên.
4. Xã Mỹ Đức trước năm
1975 thuộc quận Châu Phú của tỉnh Châu Đốc, có đông người Hoa Triều Châu sinh sống.
Hiện nay do chia cắt địa giới hành chánh, địa bàn cư trú truyền thống của họ nằm
trên hai địa phương cận kề nhau là xã Mỹ Đức (huyện Châu Phú) và phường Vĩnh Mỹ
(thành phố Châu Đốc).
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. A.A. Belik (2000), Văn hóa học - Những lý thuyết nhân học văn hóa, Đỗ Lai Thúy & Hoàng Vinh & Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật xuất bản.
2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học tôn giáo, Nxb Đà Nẵng.
3. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa: Lý thuyết và thực hành, Đặng Tuyết Anh dịch, Nxb Văn hóa Thông tin.
4. Hoàng Cầm & Phạm Quỳnh Phương (2012), Diễn ngôn, chính sách và sự biến đổi văn hóa - sinh kế tộc người, Viện Nghiên cứu Xã hội - Kinh tế và Môi trường.
5. Lâm Tâm (1994), Người Hoa An Giang, Chi hội Văn nghệ dân gian An Giang & Hội Văn nghệ Châu Đốc.
6. Lâm Thanh Quang (2017), “Tam Sơn quốc vương”, Bản đánh máy của tác giả.
7. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Thời đại.
8. Nguyễn Thị Hiền (2014), “Ma thuật nhận diện và nghiên cứu trong nhân học”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 09 (135).
9. Nguyễn Xuân Nghĩa (1984), “Ý nghĩa xã hội của các tín ngưỡng cộng đồng ở người Hoa vùng đồng bằng sông Cửu Long”, trong Nhiều tác giả, Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hóa.
10. Phạm Quỳnh Phương & Hoàng Cầm chủ nhiệm (2013), Một số khuynh hướng lý thuyết nghiên cứu văn hóa và các hướng tiếp cận nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam, Đề tài cấp bộ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội.
11. Từ Thị Loan (2016), “Lên đồng và vấn đề sức sống của di sản trong xã hội đương đại”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 74.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét