1. Đặt vấn đề
Có lẽ khi mới tìm hiểu về bản sắc, nhiều người có thể không khó để đưa ra những cách hiểu theo quan điểm của mình. Nhưng khi càng đi sâu vào thế giới bản sắc, dường như chúng ta lại càng thấy nó mơ hồ. Nói đến bản sắc, nếu như ở Việt Nam thường thiên về cộng đồng và gắn với những giá trị cụ thể, thì ở phương Tây lại thiên về cá nhân và gắn với thế giới ý niệm. Dẫu khác là vậy, nhưng chúng ta không thể phủ nhận rằng văn hóa luôn biến đổi, bản sắc cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vì thế, bản sắc không chỉ cần được bảo tồn mà còn phải luôn được kiến tạo. Kiến tạo bản sắc là chủ đề được khoa học thế giới quan tâm, nhưng ở Việt Nam vẫn chưa thật sự được chú ý nhiều.
Với Tết cổ truyền, sau hàng ngàn năm tồn tại cùng vận
mệnh thăng trầm của dân tộc, dù trải qua biết bao thay đổi cho phù hợp với từng
thời đại, nhưng nó vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong việc kiến tạo bản sắc
người Việt. Tuy vậy, đến nay dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Tết,
nhưng đa phần theo hướng phân tích những nét đẹp văn hóa của nó, vấn đề mối
quan hệ và vai trò giữa Tết với kiến tạo bản sắc vẫn còn tương đối mới mẻ. Ở
đây, chúng tôi bước đầu diễn giải một số giá trị nội tại tiêu biểu trong văn
hóa Tết, từ đó phân tích tác động của nó đến diễn trình kiến tạo bản sắc cá
nhân và cộng đồng.
2. Bản sắc và
kiến tạo bản sắc
2.1. Bản sắc
cá nhân
Đầu tiên phải nói rằng, thuật ngữ bản sắc vốn không có trong văn hóa Á Đông truyền thống. Người
Nhật Bản khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã gặp từ “identity” mà không có
từ tương ứng để dịch, phải mượn hai từ gốc Hán là “bản” và “sắc”. Về mặt từ
ngữ, bản sắc có thể được hiểu một cách đơn giản là cái gốc (bản) được thể hiện
ra bên ngoài (sắc). Tuy vậy, quan niệm về bản sắc của Việt Nam và thế giới
không giống nhau, nếu không nói là có phần đối lập. Trong nghiên cứu văn hóa,
chúng tôi đề xuất cần hiểu bản sắc theo cách hiểu phổ biến trên thế giới, bởi
“bản sắc” là từ được đặt ra để dịch từ “identity”.
Trong tiếng Anh, khái niệm identity nghiêng về cá nhân. “Từ identity có nghĩa là đồng nhất,
sự đồng nhất hoá làm nên bản sắc của một đối tượng”
[Trần Long 2008]. Bản sắc được hiểu là ý niệm của cá nhân về bản thân mình trong cộng đồng mà mình đang
hiện hữu. Nó giúp mỗi người cảm nhận về sự tồn tại và vị thế của mình trong các
mối quan hệ xung quanh, từ đó mang đến cho họ sự ý thức về cội nguồn, phẩm giá,
kinh nghiệm… cùng với những kỳ vọng về cộng đồng ấy.
Với cách hiểu trên, Nguyễn Văn Hiệu [2017: 327] nhận định
bản sắc là vấn đề có tính
bản thể luận, vì mỗi
người đều có nhu cầu xác định căn tính bản thân, trả lời cho câu hỏi tôi là ai,
tôi thuộc về đâu trong quan hệ với kẻ khác và cộng đồng khác. Như vậy suy
cho cùng, bản sắc trong cách nhìn nhận của khoa học xã hội là nhận thức về sự tồn tại của mỗi
cá thể trong quan hệ xã hội: tôi là ai và
những gì làm nên tôi?
Ở Việt Nam, bản
sắc thường đi liền với văn hóa và dân tộc, chúng ta thường nghe nhắc đến bản
sắc văn hóa hay bản sắc dân tộc, mà ít khi nghe nói về bản sắc cá nhân.
2.2. Bản sắc văn hóa
Bản sắc văn
hóa, bản sắc cộng đồng, bản sắc tộc người, bản sắc quốc gia… là những thuật ngữ
được phân biệt với bản sắc cá nhân. Theo Stuart Hall
[1992: 274], “bản sắc văn
hóa là những khía cạnh của bản sắc cá nhân chúng ta phát sinh từ sự ‘thuộc về’
những đặc tính tộc người, ngôn ngữ, tôn giáo và trên hết là văn hóa dân
tộc.” Chia sẻ quan
niệm phương Tây về bản sắc văn hóa, Trần Ngọc Khánh [2012: 69-70] giới thiệu
hai góc nhìn. Ở quan niệm khách quan, cá nhân gắn với tính xã hội trong cộng
đồng, thu nhận các mô thức văn hóa và tự nhận mình thuộc về cộng đồng ấy. Ở
quan niệm chủ quan, bản sắc văn hóa là tình cảm thuộc về một cộng đồng, thông
qua các biểu hiện mà cá nhân tạo ra từ thực tiễn xã hội.
Trong khi đó, các nghiên cứu ở
Việt Nam thường cho rằng bản sắc văn
hóa là những giá trị nền tảng, cốt lõi, bền vững… của một nền văn
hóa. Chúng là những biểu hiện đặc trưng, góp phần khu biệt và nhận diện nền văn
hóa ấy với những nền văn hóa khác. Không khó để nhận thấy sự khác biệt về cách hiểu bản sắc văn hóa trong hai môi trường học thuật nói trên. Ở phương Tây, bản sắc văn hóa dù được phân biệt với bản sắc cá nhân,
nhưng vẫn là vấn đề thuộc về ý niệm
/ tình cảm và nghiêng về cá
nhân. Nó được hiểu là
nhận thức của mỗi
cá nhân về sự “thuộc về” của mình với một cộng đồng văn hóa. Ở Việt Nam, bản sắc văn hóa lại thường thiên về các đặc điểm / sản phẩm văn hóa cụ thể.
Chúng ta có thể chấp nhận một nhận định về bản sắc văn hóa
như sau: “Bản sắc văn
hóa được thể hiện trên cả hai bình diện vật thể và phi vật thể. Tuy
nhiên, bản sắc văn hóa không
phải là các sự vật hiện tượng cụ thể, cũng không phải là các phương thức về y dược, ẩm thực, âm nhạc,
hội họa… Bản sắc văn hóa là ý
thức của chủ thể trong quá trình sáng tạo, giao lưu, tiếp biến, giữ
gìn, phát triển văn hoá dân tộc” [Trần Long 2008].
2.3. Bản sắc được kiến tạo trong vận động và biến đổi
Nếu giải
thích về bản sắc
(văn hóa / dân tộc) như cách
hiểu trước nay là những gì giá trị đặc thù mang tính nhận diện một nền văn hóa, chúng ta sẽ
thường nghĩ đến những thành tựu văn hóa được tích lũy lâu đời và bền vững qua thời gian.
Có lẽ vì nhận thức nầy, nên ở Việt Nam khi nói đến bản sắc, chúng ta đã khá quen thuộc với cụm từ “bảo tồn và phát
huy”.
Song, nếu hiểu bản sắc thuộc về ý niệm, nó sẽ thường
xuyên thay đổi. Văn hóa vốn không tĩnh
tại, nên bản sắc cũng trong
trạng thái vận động.
Stuart Hall [1992: 276-277] đánh giá bản sắc được hình thành và biến đổi liên tục, liên quan đến phương
thức chúng ta thể hiện hoặc giải quyết trong hệ thống văn hóa xung quanh. Do đó,
trong chúng ta có những bản sắc trái ngược nhau, dẫn đến những định hướng khác
nhau và những nhận dạng liên tục thay đổi.
Ở Việt Nam, dù quan điểm “bảo tồn và phát huy” trở thành
then chốt khi nói về bản sắc như đã trình bày, song sự biến đổi của bản sắc vẫn
được nhìn nhận. Chẳng hạn, một nghiên cứu đã đánh giá, “bản sắc dân tộc đã được
cấu trúc và tái cấu trúc nhiều lần để phù hợp với thời đại và hoàn cảnh chính
trị - xã hội cụ thể” [Nguyễn Văn Chính 2019].
Như vậy, bản sắc không chỉ mang tính ổn định từ quá khứ, mà còn được điều chỉnh và vun bồi bởi chủ thể văn hóa ở
hiện tại và tương lai. Cho nên, không chỉ bảo tồn hay phát huy, mà kiến tạo cũng là nhân tố then
chốt định hình bản sắc. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay “nhiệm vụ kiến tạo bản sắc - một vấn đề trung
tâm trong ứng xử của các quốc gia trước sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng toàn cầu
hóa, vẫn chưa được đánh giá đầy đủ” [Trần Thiện Khanh 2014].
3. Tết cổ truyền kiến tạo bản sắc
người Việt
Trước khi nói về Tết, phải khẳng định rằng đời sống tâm linh
là một phần căn cốt để mỗi con người tồn tại hài hòa và bền vững. Từ đó,
chúng ta dễ dàng nhận thấy những yếu tố tâm linh chiếm vị trí quan trọng trong
văn hóa Tết cổ truyền của dân tộc. Trong Tết có một thứ chúng tôi tạm gọi là
“cảm thức thiêng”, điều nầy không thể tạo ra một cách duy ý chí. Năm mới ở
phương Tây đánh dấu sự chuyển đổi chu kỳ thời gian, vì thế nó là cuộc vui.
Trong khi Tết Việt lại mang diện mạo như một dạng thức thực hành tín ngưỡng,
người ta quan tâm đến tổ tiên / dòng tộc / gia đình nhiều hơn việc chuyển đổi
chu kỳ thời gian.
Xin thử nêu ra một so sánh về đêm Giao thừa. Nếu như ở
phương Tây hàng ngàn người tụ tập ở quảng trường cùng đếm ngược để chào năm
mới, thì không gian đón Giao thừa của người Việt vừa hẹp hơn cũng lại vừa rộng
hơn. Hẹp vì nó chỉ của riêng từng gia đình. Còn rộng vì, về “chiều ngang” nó
kết nối cả dân tộc cùng hòa mình và cảm nhận giống nhau về sự thiêng liêng
trong một khoảnh khắc, về “chiều dọc” nó kết nối nhiều thế hệ trong gia đình kể
cả kẻ còn lẫn người mất. Có lẽ hiếm có ai muốn đón Giao thừa ở quảng trường với
hàng ngàn người, mà ai cũng muốn có mặt ở nhà trong thời điểm đặc biệt nầy, dù
lúc đó ngôi nhà có thể chỉ vỏn vẹn vài người.
Sau Giao thừa, những ngày tiếp theo của năm mới Âm lịch tiếp
tục được xem là những khởi đầu thiêng liêng. Quan niệm nầy hiếm thấy trong văn
hóa phương Tây, họ vẫn xem những ngày đầu năm mới có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nhưng ít đặt nặng “cảm thức thiêng” như trong văn hóa phương Đông. Ý
niệm hướng về cội nguồn luôn thường trực trong tâm khảm người Việt, nên trong
những ngày đầu năm mới, việc trở về bái vọng tổ tiên được mọi người xem như một
trách nhiệm không thể bỏ qua. Nhiều người cho rằng nếu Tết không về quê cúng
ông bà sẽ xui xẻo cả năm. Dẫu chỉ là quan niệm dân gian, nhưng xét về mặt tâm
lý, nếu những hành vi đã được cộng đồng mặc định như “nghĩa vụ” mà cá nhân không
thực hiện được sẽ có cảm giác day dứt không yên.
Suốt những ngày Tết dù mang bản chất lễ hội, nhưng nó còn là
lúc mọi người nghĩ đến phẩm giá bản thân và điều chỉnh hành vi. Khi đứng giữa
thời gian - không gian thiêng, đứng trước các thế hệ tổ tiên đã khuất, đứng bên
cạnh những người thân yêu đang hiện diện trong gia đình… mỗi người sống chân
thật hơn và nghĩa tình hơn. Lúc ấy, họ nhìn nhận những điểm ưu - khuyết của bản
thân một cách tỉnh táo hơn. Điều đáng nói ở đây, sự soi xét ấy mục đích quan
trọng hơn cả vẫn là để nhắc mình sống sao cho xứng đáng với truyền thống dòng
họ. Bởi lẽ, “khám phá bản sắc nghĩa là tìm hiểu chúng ta nhìn nhận bản thân như
thế nào và những người khác nhìn thấy chúng ta như thế nào” [Chris
Barker 2011: 298].
Nếu là những lễ hội thông thường có thể họ không cần nghĩ
đến phẩm giá, hoặc ngược lại họ cũng có thể nghĩ đến nó suốt 365 ngày trong năm
chứ cần gì phải đợi đến Tết? Rõ ràng, mỗi người có thể tự điều chỉnh hành vi
của mình hằng ngày với những mức độ khác nhau, nhưng dường như họ vẫn cần một
cột mốc quan trọng để chuyển đổi - một “ngưỡng” để tự nhìn lại và vượt qua. Có
thể nói, Tết là dịp để
mỗi người trở về với chính mình cùng những
giá trị sâu thẳm nhứt từ thế giới nội tâm.
Nếu người phương Đông đề cao sự kết hợp thăng hoa giữa thiên
- địa - nhân, thì Tết Việt chính là một trong những thông điệp sâu sắc về sự
kết hợp ấy, nhằm dạy cho con người biết sống hòa hợp với tự nhiên.
Tết không phải chỉ là điểm giao thoa chu kỳ dành riêng cho con người, mà như
ông cha thường nói: đất trời vạn vật vào xuân. Từ ngàn xưa người Việt đã chia
sẻ và truyền lưu bài học ấy, để mỗi thế hệ và mỗi năm sang, họ lại nhập thân văn hóa với Tết.
Tóm lại, “cảm thức thiêng” vẫn là yếu tố then chốt trong các
giá trị và biểu hiện của văn hóa Tết. Chúng ta có ăn Tết, sắm Tết, chơi Tết…
nhưng nếu không có những điều ấy vẫn không sao. Ngược lại, có một điều quan
trọng hơn cả và không thể không có, đó là… cúng Tết! Nếu không còn những yếu tố
tâm linh, Tết thật sự không còn ý nghĩa. Giả sử chúng ta đặt ra những câu hỏi:
tại sao phải cúng Tết, cúng mang đến trạng thái gì, không cúng thì sao… để mỗi
người tự tìm câu trả lời riêng mình, chắc hẳn cũng là một cách nho nhỏ để góp
phần nhìn nhận rõ hơn về bản sắc.
Tiến trình tiếp xúc Đông - Tây đã làm thay đổi không ít diện
mạo văn hóa Tết. Dù mất đi những yếu tố truyền thống, nhưng bù lại chúng ta
cũng đón nhận những yếu tố hiện đại để bổ sung, làm mới, làm giàu cho Tết. Đây
còn là cơ hội để quảng bá nét đẹp của Tết dân tộc ra thế giới. Tuy nhiên, “văn hóa phần lớn thuộc về quá trình
vô thức, trong khi bản sắc thuộc về một chuẩn mực phụ thuộc, cần có ý thức”
[Trần Ngọc Khánh 2012: 69].
Do đó, không khước từ hội nhập, vấn đề là ý thức về bản sắc và bản lãnh của chủ
thể văn hóa trong tiến trình ấy.
4. Thay lời kết
Tết Việt kiến tạo bản sắc người Việt vì nó mang đến cho họ
cảm nhận rõ hơn sự hiện hữu của mình trong mối quan hệ với cộng đồng. Hơn lúc
nào hết, những ngày Tết là lúc mỗi người ý thức sâu sắc nhứt về cội nguồn, góp
phần giúp họ điều chỉnh hành vi ứng xử để xứng đáng với ông cha. Từ ý niệm
thiêng liêng đó, mỗi người đặt những kỳ vọng vào cộng đồng của mình và vào
chính bản thân mình. Tóm lại, Tết là thời điểm đặc biệt nhứt để mọi người Việt
nhìn nhận lại chính mình: tôi là ai và những gì làm nên tôi.
Việt Nam đang hướng đến một xã hội công nghiệp hiện
đại. Khi ấy bản sắc của cá nhân và cộng đồng sẽ có nhiều đổi mới qua tiến trình
vận động và kiến tạo, nhưng cơ bản vẫn dựa vào trọng tâm là cội nguồn văn
hóa thiêng liêng của dân tộc. Nói như D.P. Schafer: “Người ta không thể đi rất xa trên con đường mang nhiều vẻ mà không gặp nhu cầu về bản sắc, đó là nền tảng
của toàn bộ sự tồn tại của con người” [Mai Văn Hai & Mai Kiệm 2018:
223]. Có ý thức rõ bản
sắc - ý thức rõ mình là ai, mình thuộc về đâu, những yếu tố nào định hình nên
chúng ta - chắc hẳn mỗi người Việt Nam sẽ đủ tự tin cất những bước chân vững
chải trên lộ trình hội nhập quốc tế.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 404 + 405, 2020 &
in trong sách Dấu ấn thượng châu thổ, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2021)
_______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, Đặng Tuyết Anh dịch, Nxb Văn hóa Thông tin.
2. Mai Văn Hai & Mai Kiệm (2018), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội.
3. Nguyễn Văn Chính (2019), “Công dân toàn cầu và câu chuyện bản sắc văn hóa”, Tạp chí Tia sáng điện tử (www.tiasang.com.vn), 9/2/2019.
4. Nguyễn Văn Hiệu (2017), “Văn hóa gia đình: cội nguồn của kiến tạo bản sắc (trường hợp gia đình Việt Nam)”, trong Nguyễn Văn Hiệu & Đinh Thị Dung, Văn hóa học & Một số vấn đề lịch sử - văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM
5. Stuart Hall (1992), “The question of cultural identity”, in Stuart Hall & David Held & Tony McGrew, Modernity and its Futures, Polity Press, Open University.
6. Trần Long (2008), “Bản sắc văn hoá”, Website Trung tâm Văn hóa học Lý luận & Ứng dụng (www.vanhoahoc.vn), 20/9/2008.
7. Trần Ngọc Khánh (2012), Văn hóa đô thị giản yếu, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
8. Trần Thiện Khanh (2014), “Giữ gìn và kiến tạo bản sắc dân tộc”, Báo Tổ quốc điện tử (www.toquoc.vn), 25/09/2014.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét