Du lịch đến An Giang, hầu như không ai không ghé qua núi Sam ở thành phố Châu Đốc. Ngọn núi cao 228 mét, chu vi 5.200 mét, nằm chễm chệ giữa một vùng đồng ruộng bát ngát, án ngữ cửa ngõ vào Thất Sơn. Dưới chân núi có những di tích nổi tiếng như chùa Tây An, miếu Bà Chúa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu… Tuy nhiên nếu có thời gian, các bạn nên thử chinh phục đỉnh núi để tìm kiếm những trải nghiệm thú vị cùng thiên nhiên.
Núi có ba phần chính là ngọn Đầu Bờ phía Đông, ngọn cao nhứt là đỉnh và ngọn Đá Chẹt phía Tây. Thời xa xưa, vùng Tây Nam Bộ còn chìm trong nước biển, hòn Sam nổi trên mặt nước, mang hình dáng như con sam khổng lồ. Đến khi nước biển rút, hòn Sam nằm giữa đồng bằng nên gọi là núi Sam, còn có tên là Hấu sơn, Học sơn. Sau khi kinh Vĩnh Tế được đào xong, vua Minh Mạng đã tứ danh ngọn núi nầy là Vĩnh Tế sơn, để ghi công chánh thất phu nhân của Thoại Ngọc Hầu.
Có thể lên núi bằng hai con đường. Đường tráng nhựa phía sau núi do Pháp thực hiện, ô tô và xe máy có thể đi dễ dàng. Từ Châu Đốc đến ngã ba Đầu Bờ rẽ trái một đoạn nữa là đến. Trên đường, du khách có thể nghỉ chân tại Vườn Tao Ngộ, một công viên giải trí đã có từ năm 1987.
Bạn cũng có thể viếng chùa Long Sơn đồ sộ bên triền núi, trong quang cảnh xinh đẹp, thanh thoát. Thỉnh thoảng chuông chùa ngân trầm mặc giữa núi rừng sẽ làm bạn cảm thấy thư thái hơn trong chuyến đi đang thấm mệt. Giữa đoạn đường, bạn sẽ thấy ngôi biệt thự của bác sĩ Nu - một kiến trúc hiện đại, vừa tao nhã, vừa sống động. Trước đây, bác sĩ Nu xây ngôi nhà nầy dùng để nghỉ mát, an dưỡng. Theo thời gian, nhà bị hư hỏng, hiện nay đã chỉnh trang lại như kiến trúc cũ để làm nhà nghỉ. Gần đến đỉnh núi có một ngôi miếu nhỏ thờ chí sĩ Trương Gia Mô (1866 - 1929). Ông là một nhà nho yêu nước, quê ở Bến Tre, làm quan thời vua Thành Thái. Dâng lên triều đình bản điều trần cải cách nhưng không được chấp nhận, ông từ quan về miền Nam. Mang tâm trạng buồn đau, bế tắc, cuối cùng ông đã gieo mình từ đỉnh núi Sam xuống tuẫn tiết.
Đỉnh của núi Sam có tên gọi là Pháo Đài, vì năm 1896, Chủ tỉnh Châu Đốc Doceuil đã cho xây dựng một ngôi nhà nghỉ mát trên đỉnh núi, tầng trên cùng có hình trôn ốc nên người dân gọi là Pháo Đài. Trong thời kỳ chiến tranh, Pháo Đài cũng là căn cứ quân sự chiến lược, tuy nhiên đã bị phá hủy. Ngày nay, Pháo Đài chỉ còn là phế tích với những bức tường loang lổ. Lên đến đỉnh núi, du khách sẽ thấy bệ đá trầm tích thạch màu xanh đen, hình vuông, ở giữa có lỗ vuông. Đây là bệ đá đặt tượng Bà Chúa Xứ trước khi được đem về miếu. Bệ đá được phát hiện trên núi Sam vào thập niên 1980, sau đó được xây dựng thêm ngôi nhà mát để bảo vệ di tích. Bên dưới Pháo Đài và bệ đá cổ một đoạn ngắn là ngôi chùa Giác Hương được thành lập từ năm 1878.
Gần đỉnh núi Sam có chùa cổ Giác Hương thành lập từ năm 1878 (Ảnh: Vĩnh Thông)
Nhìn từ trên núi Sam xuống, Tân Lộ Kiều Lương giống như con rắn lượn giữa làng mạc, xóm thôn. Dưới chân núi là nhà cửa chi chít, xa hơn là ruộng đồng, kinh rạch xanh lơ, và đô thị Châu Đốc nằm tít xa quyện với sương mờ. Xung quanh núi có đồng ruộng bát ngát, trên núi có nhiều cây phượng và huỳnh mai cứ đến mùa là trổ bông rực rỡ cảnh núi.
Đường thứ hai lên đỉnh núi Sam chỉ dành cho người đi bộ là đường nấc thang sau lăng Thoại Ngọc Hầu. Đường ngắn (đi khoảng một giờ) nhưng dốc, có nhiều chùa miếu và quán ăn uống để du khách dừng chân. Từ đoạn đường nầy, từ đỉnh núi Sam xuống, bạn có thể vòng qua sườn núi phía Bắc để đến ngoạn cảnh đồi Bạch Vân. Đồi cao khoảng 100 mét, trước đây có tên là núi Nhỏ. Khoảng thập niên 1940, có người đến đây lập am tu hành, đặt tên là am Bạch Vân, dần dần người dân lấy tên đó gọi ngọn đồi. Trên đồi có khí hậu trong trẻo, mát mẻ, với nhiều tảng đá lớn, hang động thú vị… Đây là một điểm tuyệt vời để nghỉ mát, ngắm cảnh, vui chơi.
Chúng ta cũng có thể men theo sườn núi đến chùa Hang - Phước Điền tự cách đó không xa. Đây là ngôi chùa khá nổi tiếng nằm trên núi Sam, được nhiều du khách biết đến và ghé thăm. Chùa là một kiến trúc tinh xảo với tổng thể màu nâu đỏ thâm nghiêm, trầm mặc, như chốn bồng lai bất chợt hiện ra trước mắt du khách.
Chùa Hang do bà Thợ lập vào thập niên 1850. Bà tên thật là Lê Thị Thơ (1818 - 1899), quê ở Chợ Lớn, làm nghề thợ may nên được gọi là bà Thợ. Con đường tình duyên lận đận, không tìm được hạnh phúc cho mình, bà muốn lánh xa cõi trần tục, tìm đến chùa Tây An ở núi Sam để tu hành. Sau một thời gian, bà rời chùa Tây An để đi về phía Tây núi Sam, tại đây bà gặp hang sâu yên tĩnh nên ở lại tu hành. Tương truyền, trong hang sâu có cặp rắn khổng lồ là thanh xà (xanh) và bạch xà (trắng), hằng đêm đến nghe kinh và bảo vệ cho hang thờ Phật của bà. Sau nầy bà viên tịch, đôi mãng xà cũng biến mất.
Đến năm 1885, chùa Phước Điền được xây dựng. Sau đó qua nhiều lần trùng tu, chùa mở rộng với nhiều hạng mục hoành tráng như hiện nay. Chùa mang phong cách Thiền tông, gồm nhiều tòa nhà kiến trúc gần giống nhau nhưng chức năng khác nhau. Chánh điện bày trí đơn giản, thanh thoát và tôn nghiêm. Phía sau chánh điện còn một di tích quan trọng, đó là hang sâu mà bà Thợ từng tu hành, hiện nay phần sâu bên trong đã được lấp kín để tránh nguy hiểm, chỉ còn lại khoảng 10 mét.
Các bạn trẻ thường thích lên chùa Hang ngoạn cảnh, bởi cảnh chùa trang nhã, dựa vào lợi thế cảnh trí núi non, khí hậu thật mát mẻ. Từ chùa nhìn xuống, cánh đồng biên giới Châu Đốc như tấm lụa óng ả ngày mùa. Nhìn sang phía Tây, vùng núi Dài Năm Giếng sừng sững như tường thành, núi Cấm phía xa xa mờ ảo trong sương. Gió từ đồng ruộng cứ rì rào thổi lên núi. Tất cả như thoát tục, tạo nên ấn tượng khó quên trong lòng du khách.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét