Đến bây giờ Hảo mới đủ dũng cảm để xác định rằng mình đang thực sự ngồi trên chuyến xe nầy. Cô biết rõ là mình đang trở về, đang là “người chạy lại”. Hành trình ra đi và trở về không khác nhau, có khác chăng là trạng thái tiếp nhận của lòng mình. Đối với Hảo bây giờ, đi hay về đã không còn quan trọng nữa, dẫu là hai khái niệm đối lập, nhưng cũng như nhau thôi. Đi hay về vẫn là hành trình của sự đơn côi, của đợi chờ thăm thẳm. Chuyến xe chở hơn năm mươi hành khách đang lao nhanh về một phía. Phía đó, Hảo biết rằng mình đã phải đợi chờ rất lâu, rất lâu, để về. Phía đó, mặc dầu đối với Hảo có thể sẽ là một phía chênh vênh.
Nắng trưa bỏng rát, hắt vào thỏi sắt
rỗng ruột hình chữ nhựt đang di chuyển trên mặt đường. Cả mui xe, thành xe, cửa
sổ, ghế ngồi… đều nóng khô. Xe chạy bon bon nhưng Hảo lại thấy nó sao mà trầy
trật, cũng như cô đang nặng nhọc lướt qua quá khứ của mình. Trên xe, có người
ngủ gật gà, người căng mắt nhìn đường, người mơ màng nghĩ mông lung…
Hảo không thuộc những tốp người đó.
Cô không biết nên làm gì lúc nầy, không có gì để suy nghĩ, muốn nhìn cảnh vật
xung quanh cũng không có tâm trí nào. Đơn giản là cô muốn tìm cách nào đó để
quên đi những lo lắng đang chờn vờn bên cạnh mình. Nhưng Hảo lại cứ như thừa thải
ra, bất lực. Cô ước gì mình có thể ngủ được như những hành khách kia, bù lại
một đêm gầy guộc thức trắng. Nhưng không được, có cái gì đó kéo chùng cô lại.
Hảo nhớ trước đây có khi cô từng nghĩ rằng mình giống y như sợi dây đàn, chùng
lại sẽ không thể phát ra âm thanh, nhưng nếu quá căng thì sẽ đứt cái bựt.
Không phải bỗng dưng Hảo lại quyết
định làm một chuyến về. Đời người đâu phải chuyện gì cũng tự nhiên, có nhiều
thứ phải đắn đo lắm. Nơi đó, đã nhiều năm Hảo không về lại, chừng như quên bẵng
đi. (Mà có lẽ thật ra là muốn quên). Mấy hôm trước, cô tình cờ xem một đoạn
thời sự đưa tin cù lao An Lương đã thông xe chiếc cầu qua sông, nối liền với
quốc lộ. Vừa mới nghe loáng thoáng, Hảo vội liếc mắt về màn hình, xem qua được
một tí thì đoạn tin đã hết, chuyển sang tin khác. Cô tắt bếp, bỏ dở bữa ăn
chiều đang nấu, lật đật mở laptop.
Phải mất một vài phút thừ người trước
những gì hiện ra trên Internet. Cây cầu rất lớn, dài gần nửa cây số, có thể ví
như kỳ công và kỳ quan của xứ miệt vườn vốn nghèo khó ngày nào. Cầu nằm ngay
chỗ bến đò xưa, nơi trước kia Hảo từng sang sông mỗi ngày để đến nhà người yêu.
Con sông vốn quen thuộc với cô, giờ đây sao lại thấy xa lạ. Hình như khi có
chiếc cầu lớn bắc ngang, nó bỗng dài và rộng ra hơn hẳn, khoác lên mình sắc màu
phố thị đậm hơn. Hảo mường tượng An Lương ngày nay có lẽ cũng như con sông kia,
đã thay đổi nhiều. Dáng dấp thôn dã dần phai nhạt, xứ quê mùa đột ngột trở nên
lạ lẫm trong mắt kẻ đi xa. Mà cũng phải thôi, cái gì rồi cũng sẽ thay đổi, quá
khứ đâu thể là thứ trường cửu để con người ôm khư khư mãi… như Hảo!
Ký ức đâu đó lại gõ đều đều vào lồng
ngực. Hảo nghe rõ ràng lắm. Cô ngồi thẩn thờ trước màn hình laptop, nhìn thật
kỹ những hình ảnh trước mắt mình, nghe những thứ mang tên “ngày xưa” quét ngang
đôi mắt. Đến lúc đó, Hảo mới nhớ rằng mình đã rất nhiều năm không về nơi ấy.
Nhưng chính xác là bao nhiêu năm, ngay cả cô cũng không nhớ rõ, đúng hơn là
không muốn nhớ đến.
Bỗng dưng lúc nầy Hảo lại nảy ra ý
định làm một chuyến về. Mà, về để làm gì chứ? Câu hỏi thấy dễ, mà đâu dễ trả
lời dứt khoát được. Không một mục đích rõ ràng. Không một nơi để tìm lại. Không
một người thân quen. Nếu nói về để nhìn cây cầu lớn và dài ngoằn ấy có lẽ chỉ
là bịa. Hình ảnh trên báo, truyền hình, Internet đầy dẫy, khắp nơi cũng có biết
bao cây cầu hoành tráng hơn thế, cần gì Hảo phải lặn lội hàng trăm cây số để về
xem? Vậy mà cuối cùng, người đã trốn tránh nơi ấy bao nhiêu năm nay quyết định
sẽ về. Về, đơn giản chỉ là… để về.
Giờ đây, khi đã ngồi trên xe, Hảo lại
cảm thấy bất an.
Sự bất an vốn đã có từ ngày ra đi chứ
không phải đợi đến lúc trở về. Thành phố lạ mở ra cho Hảo những ngày tháng mới,
nhưng dường như lại tràn ngập những bất an. Chưa biết có thể tìm được hạnh phúc
hay không, nhưng ít ra, lao đầu vào công việc bộn bề có thể làm cô ít nhớ nghĩ
tới chuyện cũ. Có lẽ như vậy thì sẽ ít đau hơn.
Vậy mà cô lại phải thường xuyên đối
mặt với cô đơn. Hảo sợ đêm, vì khi ấy cô phải rời công việc, đối diện với bốn
bức tường phòng trọ. Chỉ một mình cô. Nhiều lần, Hảo vừa nghe nhạc vừa xem hình
người yêu cũ, và khóc. Không phải là muốn khóc, mà khi nghe lại bài hát cũ, xem
lại hình ảnh cũ, cô không thể nào ngăn được dòng nước âm thầm tràn ra từ khóe
mắt. Mấy giọt nước nhỏ xíu, lăn ra hiền khô, vậy mà cũng đủ để bao người phải
mang đầy nặng nhọc. Hảo cố lừa dối mình, rằng mình muốn quên, mình sẽ quên.
Nhưng cô lại đặt khung hình của người yêu trên đầu giường, để mỗi ngày được
nhìn thấy gương mặt ấy.
Người yêu của Hảo - giờ đã gắn thêm
từ “cũ” phía sau, không phải là con trai như những cặp tình nhân khác. Thùy
cũng là con gái, con gái xứ cù lao An Lương “chánh hiệu”. Thùy thường tự hào
rằng ở mảnh đất của mình sống, mỗi con người đều bình dị và chân thành. Hảo
nghĩ không biết có phải vì thế mà Thùy cũng mang trong mình nét đẹp mộc mạc của
những con người đó? Thùy duyên dáng, sắc sảo nhưng cũng lại mạnh mẽ, thậm chícó
phần hơi ngang tàng. Điều nầy Hảo lại rất thích. Hảo nói, con gái dịu dàng
thường không mạnh mẽ, ngược lại nếu con gái quá cứng rắn thì không được tinh
tế, nhưng Thùy lại có cả hai.
Dạo ấy, là những chiều rất trẻ, Hảo
thường có mặt ở bến đò quen thuộc. Nó sẽ đưa Hảo sang cù lao An Lương để đến
với Thùy. Cô đứng trên con đò lắc lư giữa mênh mông sóng, lòng nôn nao muốn
nhanh chân sang bờ bên kia. Trên con đò nhỏ ấy, Hảo biết rằng mỗi phút giây chờ
đợi để được sang bờ là những phút giây cảm thấy mình bình yên và hạnh phúc. Đơn
giản là Hảo chỉ muốn gặp Thùy, chở Thùy đi đâu đó, hay chỉ là nhìn nụ cười của
Thùy, cũng đủ thấy ấm lòng. Tình yêu của cô và Thùy, mặc dù không giống như
tình yêu bình thường của những người khác, nhưng nó không phải là trò chơi
Vậy mà những điều ấy giờ đây đã là ký
ức quá xa xăm rồi, kể từ ngày Hảo không qua sông nữa. Buổi ấy, cô không từng
nghĩ rằng sẽ có ngày mình không xuống đò sang sông. Vậy mà cũng có lúc cù lao
An Lương làm mặt lạ với cô, con đò không còn niềm nở với cô nữa. Tất cả như xua
đuổi Hảo, biểu phải tập quên nơi đây đi, tập quên bến đò nầy đi, chúng không
thuộc về cô. Đó là khi Hảo thấy mờ mờ một màng nước mỏng trong vắt sắp vỡ ra từ
trong mắt Thùy. Đó là khi Thùy kìm tiếng nấc quay đi không nhìn cô nữa.
“Hảo về đi! Và cũng… đừng đến nhà
Thùy nữa. Thùy không thể… Thùy xin lỗi!”
Hảo ngựt mình, ngó Thùy trân trối.
Chuyện gì sắp xảy ra với cả hai đây? Hảo còn chưa kịp hỏi rõ ràng thì ba của
Thùy từ trong nhà đã tất tả bước ra, quăng cái nhìn bén ngót vào mắt cô. Ông
bắt đầu nói, mỗi lời cất lên như sắp sửa nuốt chửng cô gái mảnh mai đứng trước
mặt mình.
“Gia đình tôi đã biết chuyện của cô
và con Thùy. Tôi nói cho cô biết, tôi và má nó không thể nào chấp nhận chuyện
hai đứa con gái yêu đương nhau. Đó là trái với đạo lý, làm nhục mặt cái nhà
nầy…”
“Ơ… Bác ơi…”
Hảo muốn nói, nhưng không thể. Cơn
giận của ba Thùy như không có điểm dừng.
“Cô có nghĩ cho con Thùy không? Nó
còn phải lấy chồng, sanh con đẻ cái. Làm ba cái trò yêu đương bịnh hoạn nầy rồi
làm sao sao dám nhìn mặt bà con chòm xóm?”
Đôi mắt ông đỏ ngầu, tưởng như sắp
sôi sùng sục. Hảo sựng lại rất lâu trước cặp mắt ấy! Cô cất lên những lời nói
yếu xìu, ngập ngừng, như đoán trước được trong chuyện nầy trước sau mình gì
cũng sẽ là người thất bại.
“Bác ơi! Tình yêu của hai người cùng
giới tính… thì có sao đâu bác? Tụi con yêu nhau thật lòng và hạnh phúc. Tụi cần
có nhau… để chăm sóc và san sẻ cho nhau…”
“Thôi đi, khỏi nói nữa gì hết! Cái gì
mà hạnh phúc, tụi bây là nhục nhã cả dòng cả họ kìa.”
“Sao bác cứ dùng những luân lý nữ
lấy nam, sanh con đẻ cái? Con gái yêu con gái thì là quái vật hay sao? Tụi con
có làm ảnh hưởng đến cuộc sống của ai đâu, sao bác lại cấm tụi con…”
“Không là quái vật chớ còn là gì? Con
gái không lấy chồng chẳng lẽ để đi theo cái thứ như mầy hả? Đồ bịnh hoạn! Làm
ơn đừng dụ dỗ con tao nữa! Mầy đi ra khỏi cái nhà nầy.”
Hảo nói sắp không thành tiếng, cổ
họng nghẹn ứ, khô khốc. Đôi môi cắn chặt lại, như muốn tứa máu. Da thịt nghe
râm ran đau nhói, rát buốt.
“Con… thật lòng với Thùy. Bác làm ơn…
đừng bắt con rời khỏi Thùy, bác đừng bắt con đi…”
Ba của Thùy cắt ngang lời Hảo, mấy
câu nói của ông càng lúc càng dồn dập nuốt chửng lấy cô. Ông còn nói nhiều nữa,
nhiều nữa, nhưng lỗ tai cô lùng bùng ra như không còn có thể tiếp nhận thêm lời
nào. Hảo cảm thấy mình sợ hãi và bất lực. Cô muốn thét lên thật lớn, muốn nhào
đến giành lại người con gái của mình, muốn ôm chặt lấy Thùy, muốn cùng người
mình yêu rời khỏi nơi đau khổ nầy… Thậm chí, Hảo muốn được chết đi ngay bây
giờ, kết thúc một kiếp người. Nhưng, cô không thể làm gì hơn được.
Cô nhìn Thùy, gương mặt người Hảo yêu
cũng đã ngập ngụa nước từ lúc nào. Hảo biết làm thế nào bây giờ, Thùy ơi? Thùy
đến bên cô, chỉ nói được một câu ngập ngừng, đôi môi sắp vỡ của Thùy phát ra
những tiếng nặng nề:
“Hảo à! Thùy xin Hảo đó, Hảo về đi
mà… về đi…”
Ba lôi Thùy vào nhà, tiếng cửa đóng
sầm như nhát chém đau đứt ruột. Hảo im bặt, chết đứng. Mọi thứ đổ sầm trước mặt
cô. Vậy là hết!
Hảo trở về vẫn trên chuyến đò quen
thuộc, nhưng sông giờ đây đã thành kẻ lạ. Nó quá rộng, quá sâu, mà sao con đò
lại bé nhỏ, chơi vơi. Giống như Hảo, một mình bơ vơ giữa thế giới rộng thênh,
thế giới tràn ngập những thứ gọi là luân lý, đạo đức, định kiến. Ở nơi đó, bao
giờ con người ta mới có thể tìm lại được bản thể của chính mình và bước đi trên
con đường đã chọn. Biết bao giờ Hảo mới tìm được hạnh phúc chân thật và bình
yên? Những gì vun vén bấy lâu, đêm ấy, Hảo đã gửi lại hết cho sông nầy.
Đám cưới Thùy, Hảo đứng bên nầy sông
nhìn sang bên kia, úp mặt vào mộng mơ vừa vỡ, và khóc. Không biết bên bờ kia,
Thùy có khóc như Hảo? Cô muốn bước xuống chuyến đò quen thuộc để sang sông,
muốn đứng trước căn nhà đã từng có nhiều kỷ niệm. Hảo không đủ mạnh mẽ, nhưng
cũng không vô tình như người khác nghĩ. Cô nhớ lắm, đau lắm! Bao nhiêu ký ức về
Thùy chảy tràn ngay trong lúc ấy, như một dòng thác đổ ầm vào Hảo. Dòng thác âm
thầm, nhẹ nhàng mà sao nghe lạnh ngắt, buốt đến tận bên trong lồng ngực.
Bên kia sông là cổng cưới hoành
tráng, đỏ rực - màu đỏ của tình yêu, của hạnh phúc, của may mắn. Tiếng nhạc
phát ra từ đám cưới cứ vang vang đến tận bên nầy sông nơi Hảo đang đứng, với
những ca từ lặp đi lặp lại: cưới, cô dâu, chú rể, hạnh phúc, gia đình… Tự dưng
Hảo cảm thấy thèm, thèm lắm chứ. Cũng muốn có cô dâu chú rể như ai, cũng muốn
có gia đình hạnh phúc như ai. Gia đình đó sẽ có một đứa con nhỏ, đứa con không
có cha, nhưng thay vào đó nó sẽ có hai người mẹ chăm sóc, thương yêu. Làm sao
có được?
Vậy là Hảo ra đi. Mái tóc dài nhanh
chóng được bỏ xuống không thương tiếc. Cô đi với mái tóc ngắn chỉ còn đến chấm
vai.
Đi, tưởng là sẽ không trở lại.
Nhưng hôm nay, Hảo lại về.
Đơn giản là muốn về lại một chốn xưa.
Chốn ấy chứa đủ những vui buồn của một thời trẻ dại. Cô vẫn mong nhìn lại, nhìn
lại có thể để rồi quên, có thể sẽ lưu luyến thêm, cũng có thể sẽ đau hơn. Có
thể ngôi nhà đó không còn, có thể Thùy đã chồng con nheo nhóc. Hảo chưa biết
mình sẽ lâm vào tình huống nào, sẽ phải ứng phó ra sao khi về xứ ấy và nhứt là
có thể sẽ gặp lại những con người cũ. Nhưng mà, dầu tình huống nào xảy đến, Hảo
cũng sẽ đón chờ và đối diện. Vì, cô đã sẵn sàng nhận một chuyến về. Vì, cô
không đủ dũng cảm để phủi bỏ một cái sạch trơn quá khứ của mình.
Khi ấy, trong giờ phút Hảo từ trên xe
xuống và bước chân đầu tiên lên mảnh đất An Lương để đánh dấu ngày trở lại, cô
sẽ nhìn nó một lần thật lâu, thật kỹ. Cô sẽ đi qua cây cầu nối hai bờ yêu
thương ấy, nó sẽ đưa cô về với chốn cũ của cô.
Chuyến xe hơn năm mươi hành khách
đang lao nhanh về một phía. Phía đó, Hảo biết là không còn xa…
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Tạp chí Thất
Sơn, số 238, 2018 & in
trong
tập truyện ngắn Chạm đến tinh khôi, Nxb Dân Trí, 2020)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét