Đã không biết bao nhiêu lần như thế, cứ mỗi khi nghe tiếng gió lao xao ngoài sông thổi vào, dù rất nhẹ, cũng khiến cô giáo đang đứng trên bục giảng kia phải rợn người. Cái rợn người lạ lắm, cứ như có ma lực, cứ như có một sức mạnh vô hình nào đó đang rù rì bên tai. Hôm nay vẫn thế, vẫn như bao lần trước, cô vừa giảng được mấy câu thì ngọn gió ám ảnh ấy lại nổi lên, lại đánh phần phật vào vạt áo dài màu lá mạ rất đẹp của cô. Cơn gió quái ác thổi vào dáng người mảnh mai, cô tưởng như nó đang xé toang cơ thể mình, chui tọt vào gan ruột mình rồi quần quật trong ấy. Lạnh ngắt.
Cô không dám đối mặt với cơn gió đó,
vì nó thổi từ sông vào. Mỗi khi cơn gió nổi lên, cô như nghe rõ tiếng lao xao
phía ngoài sông. Cơn rợn người lại nổi lên, chạy dọc sống lưng, lên đến đỉnh
đầu. Cô biết rằng đôi mắt mình đang hiện lên vẻ hoang mang, mặc dù chính cô
không thể nhìn thấy đôi mắt, nhưng cảm nhận rõ lắm điều ấy. Và, cô lại đâm ra
sợ… sợ điều mình đang lo nghĩ sẽ trở thành hiện thực. Cô biết rằng một ngày nào
đó, có thể lắm chứ, điều ấy sẽ thực sự xảy ra. Nhưng đó là khi nào xa lắc kia
kìa, chứ còn bây giờ… cô không dám nghĩ đến nó.
Tại sao bao nhiêu lần vẫn thế, cơn
gió quái ác ấy cứ nổi lên? Một cơn gió mang hình hài tuyệt vọng. Nó dìm tất cả
những niềm vui trong đầu cô, chỉ chừa lại một khoảng trống tối đen chừng như vô
tận. Cô đã cố gắng đối mặt với nó, thậm chí là chường mặt ra đanh thép đón nó,
nhưng rồi lại không thể. Cô quá yếu mềm. Giọng giảng bài của cô trở nên lạc
lõng.
Không biết tụi học trò có nghe giảng
không, có để ý thấy điều gì kỳ lạ hiện ra trên gương mặt cô giáo mình hay
không? Nhưng cô thì cảm thấy những gì mình đang nói như những âm thanh vô
nghĩa, thậm chí có khi như hoàn toàn không có âm thanh nào. Chỉ có tiếng gió lao
xao ngoài sông đang nghe cô, đang trò chuyện với cô. Và, chỉ có cô nghe gió
nói, mặc dù cô không muốn.
Tối qua cô lại nằm mơ, lại thấy ông
nội về. Ông bảo phải cố giữ cái bờ đất ven sông. Ông và bà đã từng ở đó, ba má
cô cũng ở đó, thậm chí bao đời tổ tiên xa lắc xa lơ cũng từng ở đó. Đó cũng là
nơi cô cất tiếng khóc đầu đời cho đến trưởng thành, nơi cô đã từng ôm ấp nhiều
mộng mơ. Tất cả, ở trên mảnh đất ấy. Mà, giữ lại làm sao được bây giờ, ông nội?
Ông không nghe cô hỏi, ông bỏ đi. Cô thấy hình như ông khóc. Tỉnh dậy, biết chỉ
là giấc mơ, cô cũng sụt sùi. Ngay cả cuộc gặp ngắn ngủi trong mơ, những người
thân yêu của cô cũng vẫn trăn trở về mảnh đất nhỏ quê nhà.
Đó là mảnh đất đầu cù lao, nơi nuôi
dưỡng bao thế hệ trong dòng tộc, giờ sắp không còn. Mấy chục năm qua, nó đã lở
rất nhiều, lở mãi, lở mãi. Bờ đất bây giờ dựng đứng, phía trong đỏ như màu gạch
cua. Mà không, đúng hơn là màu máu, máu của bao thế hệ khai sanh ra mảnh đất
nầy và nằm lại với nơi đây. Cứ mỗi năm sóng nước lại lấy đi một mét, hai mét,
thậm chí có năm gần chục mét, không biết đến bao giờ mới thôi. Cô từng đọc trên
một tờ báo rằng dòng sông hễ bên nầy lở thì bên kia bồi, sau một chu kỳ nào đó
sẽ đổi dòng, lúc đó bên bồi sẽ lở và bên lở sẽ được bồi ngược lại. Nhưng không
biết tới chừng nào con sông quê cô mới chịu đổi dòng, để cái bờ đất nhỏ thuở ấu
thơ được bồi trở lại. Bao giờ?
Gió lao xao, sông nổi sóng lớn, và
rồi cả gió và sóng hợp lại cùng nhau, vồ lấy cái bờ đất ấy xuống lòng sông. Đó
là những viễn cảnh luôn ám ảnh lấy cô. Bởi thế, cô sợ tiếng gió lao xao quái
đản ở ngoài sông. Dù gió phải len qua những hàng cây, len qua những khe cửa sổ
mới đến được cái bục giảng cô thường đứng, nhưng cũng đủ làm cho cô giựt mình.
Cứ mỗi lần nghe tiếng gió, cô lại hình dung ra nụ cười đồng lõa của gió khi
cùng sóng đánh ầm ấp vào bờ. Nỗi sợ ấy lại trườn lên, mơn trớn lấy mớ ký ức quá
đậm của cô, nó bào mòn, bào mòn dần. Cứ như bào mòn từng lớp đất quê cô.
Hằng đêm cô thường mơ, nếu không mơ
thấy ông về thì lại mơ thấy cảnh tượng dòng sông vồ lấy mảnh đất nhỏ của mình.
Mỗi lần như thế, cô cảm giác như thân thể nặng nề. Cô cũng muốn giữ lại mảnh
đất ấy, như giấc mơ ông đã căn dặn. Đã có đôi lần vụt chạy ra bến sông, đứng
trên bờ nhìn xuống, lòng sục sôi ý định điên rồ phải cứu vãn bờ đất ấy. Nhưng rồi
cô lại thừ người ra, không biết phải làm gì. Cô bất lực trước những ý định của
mình.
Tiếng trống hết giờ vang lên như một
sự giải thoát cho cô lúc nầy. Cô không thể đứng lâu hơn được nữa.
Cô cần gieo mình xuống giường ngay
bây giờ, ngủ một giấc thật sâu, như thế có lẽ cơn gió quái ác đó sẽ không đuổi
theo cô. Nhưng cô lại không muốn về nhà vội, cũng không muốn nghĩ đến việc cơm
nước cho chồng con. Chiếc xe của cô chạy thẳng ra bờ đất phía đầu cù lao, nơi
có bến đò hằng ngày đưa khách qua lại hai bên bờ. Cô bất giác nhớ đến những câu
hát da diết: “Sông vẫn in màu mây, vẫn khi vơi đầy vẫn mang phù sa, làm đẹp
thêm làng quê yêu dấu. Sông vẫn như thuở ấy, vẫn con đò ngang đón đưa người
sang, và từng đêm hát ru đôi bờ.” [*] Cô cảm thấy từ trong lồng ngực
nhói ra.
Đã lâu rồi cô không đi qua nơi nầy.
Đường từ nhà đến ngôi trường đang dạy không đi ngang đây, đó chỉ là lý do cô
viện ra đế dối gạt bản thân. Thực ra nguyên nhân vẫn là cô không muốn nhìn thấy
mảnh đất ven sông cứ hẹp dần sau những lần mình đi ngang. Cô ngại qua đoạn
đường nầy, ngại qua sông bằng bến đò nầy. Vì cô ngại thấy cảnh sóng nước hung
tàn đang gặm nhắm từng vạt đất đáng thương.
Lòng sông quá rộng, những giề lục
bình trôi ngơ ngác như vang lên một điệu buồn, cũng quen thuộc y như hàng trăm
dòng sông, kinh rạch ở vùng đất nầy. Cô đã đứng ở bờ sông, gần lắm với tuổi
thơ, nhưng cô không thể nào với tới được, cũng như không bao giờ đến được mảnh
đất của ngày xưa nữa, không thể nào sờ lên những kỷ niệm đang sống dậy trong
lòng mình, không thể cùng những đứa trẻ đen nhẻm ngày xưa bì bõm ở bờ sông. Cô
nhớ một điều gì đó mơ hồ, nhưng đau lắm!
Có vài ba người đàn ông đang chài
lưới gần đó. Một người nói bâng quơ:
“Hôm nay chài không được bao nhiêu
hết, chán quá!”
Cô buộc miệng hỏi lại, cũng chỉ rất
bâng quơ:
“Mấy bữa trước được nhiều không chú?”
“Hổm rày thì đỡ hơn.”
“Phải không có dòng sông thì mọi
người đâu có khổ?”
Lại cũng là một câu nói bâng quơ bất
chợt cất lên. “Mọi người đâu có khổ” ở đây ý cô nói những người chài lưới vất
vả kia, và cả những người chứng kiến cảnh dòng sông cướp đi đất đai của họ, như
cô. Người đàn ông không quay lên nhìn mặt cô, vẫn ung dung với cái lưới của
mình, vừa cười mỉm vừa trả lời:
“Trời, cô nầy biểu ngộ hen! Không có
sông làm sao sống hả cô?”
Không có sông làm sao sống, có phải
vậy không, thật vậy không? Có biết bao nhiêu người đã phải từ bỏ nơi chôn nhau
cắt rún của mình chỉ vì dòng sông nầy. Ngay cả cô cũng đành quay lưng từ bỏ
thiên đường tuổi thơ, từ bỏ xứ sở yêu thương. Gia đình cô giờ đây phải lùi xa
mảnh đất ấy gần một cây số để cất nhà mới, cũng như bao gia đình khác gần đó.
Vì họ sợ rằng nếu vẫn sống ở chỗ đã nuôi lớn mình hàng chục năm qua, không sớm
thì muộn, ngôi nhà cũng sẽ trôi theo sóng nước. Bao căn nhà, bao đám rẫy, vườn
tược, thậm chí đình, chùa… tất cả cũng đã trôi theo nước cả rồi! Gần đó còn lại
lưa thưa vài nóc nhà xơ xác. Nếu có tiền cũng chẳng ai muốn ở chốn nầy, nhưng
họ đều là những người quá khốn khổ, nên ngoài việc chờ căn nhà bị cuốn trôi
theo dòng nước thì chẳng còn cách nào khác. Cô tỏ ra bực dọc:
“Sông làm đất lở hoài, bà con phải bỏ
đi nơi khác.”
Người đàn ông lại vẫn nở một cái cười
thiệt hiền, từ tốn:
“Đất không có duyên với người thì nó
đi. Người không có duyên với đất thì người đi. Đời hợp tan tan hợp, có gì đâu
mà buồn! Mà nói vậy chứ đất có đi đâu, nó lở ở đầu cù lao, theo sông chảy dài
xuống dưới đuôi cù lao rồi tấp vô đó, kéo dài, kéo rộng cù lao mình ra thêm
hoài. Rồi mai đây bà con mình sẽ xuống đuôi cù lao dựng nhà, mở xóm, làm ăn… Cô
không biết sao?”
Có chuyện đó sao? Thật tình là cô
không biết. Cô chưa từng đặt chân đến cuối cù lao lần nào, vì dưới đó chỉ là
bãi bồi trống trơ, không có đường sá, vài chòi lá nằm lẻ loi của những nông dân
dựng tạm trong mùa lúa. Chẳng lẽ những hạt đất tuổi thơ của cô đã neo đậu nơi
ấy? Nếu vậy là chúng không đi đâu xa khỏi làng nầy, vẫn thủy chung như ngày
trước? Không có duyên với nhau thì đi, hợp tan tan hợp - lại là những lời phát
ra từ một người chài lưới. Nó làm cô ngạc nhiên. Những suy nghĩ của người đàn ông
quê mùa ấy sao lại quảng đại mà giản đơn thế. Còn cô, một cô giáo với bao kiến
thức, chữ nghĩa trong đầu, nhưng phải chăng đã sống quá hẹp lòng với sông?
Có mấy đứa nhỏ vừa xuống sông tắm, nô
đùa tinh nghịch. Chừng như đối với chúng chẳng hề có lo lắng, muộn phiền về
ngày mai, ngày kia. Chúng sống trọn vẹn với phút giây thực tại vui tươi nầy.
Còn cô, sao trong cô lại đầy rẫy những bất an, phiền muộn. Không có sông làm
sao sống, câu nói ấy cứ ám ảnh cô. Sông đã lấy đất của làng, nhưng cô cũng biết
rằng mình từng sống những năm tháng tuyệt vời với con sông nầy. Những con cá,
con cua, con ốc được sanh ra từ dòng sông nầy, chúng nuôi bao thế hệ lớn lên,
chúng là nguồn sống cho biết bao gia đình trên cù lao.
Và, tuổi thơ cô cũng đã một thời hồn
nhiên dưới dòng sông nầy, nơi mỗi chiều con sóng rì rào ôm ấp những cô cậu bì
bõm trên mặt nước. Ngày ấy cô cũng nghịch cỡ như tụi nhỏ bây giờ, thậm chí có
hơn. Con nít tắm sông bày ra đủ thứ trò chơi dưới nước: chuyền khỉ, trốn tìm,
đánh trận, keng… Những trò chơi thơ bé bắt nguồn từ nơi đó, còn đọng lại trong
cô đến tận bây giờ. Nhớ về những tháng năm ấy, bất giác cô mỉm cười một mình.
Tự dưng cô muốn được nhảy xuống dòng sông để tắm, để uống một ngụm nước ngọt
ngào và thơm vị phù sa như hồi còn nhỏ.
Điện thoại bỗng reo, là thằng con
gọi:
“Mẹ sao chưa về nấu cơm nữa, con đói
bụng quá!”
Tới lúc nầy cô mới sực nhớ là đã xế
chiều, ban nãy cô từ trường chạy ra đây, chưa về nhà lo cơm nước cho chồng con.
Mà lạ - cô nghĩ - tại sao mình không thể bỏ những ưu tư, lo nghĩ, sống trọn vẹn
với thực tại như những đứa trẻ. Sông kia, bờ đất kia, có bao giờ thuộc về mình
đâu, chúng đã là quá khứ mất rồi. Quá khứ đi qua, có níu kéo cũng không được,
tương lai lại là một khái niệm rất mù mờ ở tít xa mà không biết đến bao giờ mới
với tới được. Con người không thể điều khiển, sắp đặt chúng. Vậy thì tại sao
không để mọi thứ diễn ra tự nhiên như đúng bản chất vốn thế? Tại sao phải tự
dằn vặt, toan tính, khổ đau? Thực tại là gì chứ, không phải dòng sông hay bờ
đất kia đâu, mà chính là một bữa cơm ngon chồng con đang đợi ở nhà.
Xa xa, con đò làng vẫn cứ lướt nhẹ
trên mặt sóng, tách bến khi tiếng xôn xao vừa dứt, rồi lại cập bến với những
tiếng xôn xao rộ lên. Dòng người xe lại hối hả di chuyển. Những âm thanh lao
xao của tiếng máy, tiếng sóng, tiếng người lại hòa quyện vào nhau giữa không
gian lắng đọng của xứ cù lao. Tất cả không ồn ào, vội vã, mà chậm dần, chậm dần
như con sông chảy mãi không ngừng nghỉ.
Phút giây lắng lòng bên bờ sông thân
thuộc tưởng chừng như dài ra hơn, trống trải hơn bao giờ hết. Dòng sông ấy đã
không chỉ chảy qua cù lao quê nhà, mà còn chảy trong lòng bao thế hệ, tạo thành
mạch ngầm nuôi sống mảnh ký ức mong manh của mỗi người. Quả thực là nó đã lấy
đi đất đai của làng, nhưng cho lại cũng không ít. Phải chăng lỗi kia không phải
tại con sông?
“Có duyên sẽ gặp”, người đàn ông chài
cá nói vậy, cô hiểu là nếu mình có duyên với mảnh đất yêu thương nầy, một ngày
nào đó sẽ gặp lại. Mà nếu như không gặp được, thì thế hệ con cô, cháu cô, nhứt
định chúng sẽ gặp. Đất đi… ừ thì đất đi, rồi cũng có ngày đất sẽ lại trở về. Cô
tin như vậy. Rồi đất lại về.
Bây giờ thì cô phải về với bữa cơm
gia đình thôi. Tối nay, cô sẽ thắp nhang trên bàn thờ ông, để nói với ông một
điều…
Cù lao Giêng - Cù lao
Năng Gù, 4/2012
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Báo Cần
Thơ, số 211, năm 2017 &
in trong tập truyện ngắn Chạm đến tinh khôi, Nxb Dân Trí, 2020)
––––––––––
[*] Lời bài hát Trở về dòng sông tuổi thơ của nhạc sĩ Hoàng
Hiệp.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét