1. Dẫn nhập
Phật giáo có mặt ở đất nước Việt Nam trên hai ngàn năm với dòng chảy chủ đạo là Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna). Đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh Đông Dương là thuộc địa của Pháp, quá trình tiếp xúc văn hóa giữa các quốc gia diễn ra mạnh mẽ, Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda) được truyền bá vào cộng đồng người Việt. Bên cạnh đó, miền Nam là vùng đất xuất hiện nhiều tôn giáo bản địa, đa phần chịu ảnh hưởng từ Phật giáo. Do vậy, nơi đây hội tụ các truyền thống tôn giáo rất đa dạng và phức tạp.
Thập niên 1940,
một tông phái Phật giáo mới ra đời, có tên là Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Phật
giáo Khất Sĩ chủ trương tích hợp có chọn lọc những giá trị trong tư tưởng của
hai trường phái Phật học Thượng tọa bộ và Đại thừa, đồng thời dung hòa những yếu
tố phù hợp với văn hóa truyền thống của Việt Nam, từ đó hình thành nền Phật
giáo dân tộc và hiện đại. Sau gần 80 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo Khất Sĩ
trở thành hệ phái tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam. Thành quả đó bắt nguồn từ
những bước chân đầu tiên của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang.
2. Khái quát về Đức Tổ sư Minh Đăng Quang
Đức Tổ sư Minh Đăng Quang thế danh Nguyễn Thành Đạt, sanh ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi 1923 (Âm lịch), quê quán ở làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long). Ngài là con của ông Nguyễn Tồn Hiếu và bà Phạm Thị Tỵ (tự Nhàn), nhưng thân mẫu chẳng may mất sớm, Ngài được nuôi dưỡng bởi kế mẫu Hà Thị Song. Khi đi học, Ngài sử dụng họ tên khác là Lý Huờn. [1]
Xuất thân trong
gia đình có truyền thống Phật giáo, bản thân lại quan tâm tìm hiểu tư tưởng nhà
Phật, do đó Ngài có chí hướng xuất gia từ rất sớm. Năm 1937, Ngài từ giã gia
đình, sang Cambodia tầm sư học đạo. Bấy giờ, Ngài tìm đến ông Lục-tà Keo - một
người có quen biết với gia đình từ trước, khi đó ở làng Tuk Meas, người Việt quen
gọi là Sóc Mẹt (nay là xã Tuk Meas Khang Lech, huyện Banteay Meas, tỉnh
Kampot). Ngài vừa làm việc phụ giúp ông, vừa dành thời gian vào các chùa Khmer
tìm hiểu kinh điển Pāli.
Năm 1941, Ngài
trở về Việt Nam, làm việc ở Sài Gòn. Năm 1942, Ngài lập gia đình với cô Kim
Huê, con gái của ông Hội đồng Võ Văn Nhiều ở Chợ Lớn. Năm 1943, hai người có
con gái đầu lòng là bé Kim Liên, nhưng cũng trong năm đó, cô Kim Huê qua đời.
Sang năm sau, bé Kim Liên cũng lìa đời. Sự mất mát to lớn xảy ra trong khoảng
thời gian ngắn khiến Ngài càng thấm thía hơn về kiếp nhân sinh.
Năm 1944, Ngài xuất
gia tại Vĩnh Long. Không bao lâu, nơi đây xảy ra biến loạn do sự bắt bớ của
quân Pháp đối với người kháng chiến, khiến người tu hành khó có thể yên ổn [Hoa
Ngọc 2013]. Ngài quyết định ra đảo Phú Quốc tu hành, nhưng khi đến Hà Tiên lại
trễ tàu, bèn ở tạm tại mũi Nai để chờ ngày có chuyến tàu khác. Trên sườn núi
Đèn nằm ven biển, Ngài thiền định trong bảy ngày đêm rồi chứng ngộ. Sau đó,
Ngài trở về báo tin cho gia đình, rồi ẩn tu ở vùng Thất Sơn (tỉnh An Giang ngày
nay) và Cambodia trong hai năm.
Ngài tự thuật:
“Minh Đăng Quang Khất sĩ xuất gia 1944 tại Vĩnh Long, đi tu tìm học nơi hai
giáo lý Đại thừa, Tiểu thừa của Cao Miên và Việt Nam. Năm 1946 nạn khói lửa chiến
tranh danh lợi, đốt phá núi rừng, làm cho người tu không chỗ ở, lại thêm nạn cướp
bóc, không cho kẻ sĩ hiền làm việc nuôi thân sống tạm. Minh Đăng Quang rời khỏi
xứ Cao Miên trở về Nam Việt thật hành giới luật Tăng đồ tại tỉnh Mỹ Tho cho đến
năm 1948” [Tổ sư Minh Đăng Quang 2016: 732].
Năm 1946, Ngài tu
hành trong khu vườn của một gia đình ở làng Phú Mỹ, tổng Hưng Nhơn, quận Châu
Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tịnh xá Mộc Chơn, xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh
Tiền Giang). Bấy giờ, làng bên là Tân Hòa Thành có chùa Linh Bửu, thỉnh thoảng
Ngài lui tới để thực hiện các nghi lễ Phật giáo cho bá tánh, nhưng từ chối làm
trụ trì theo lời đề nghị của dân chúng [Hành Vân 2016: 94-95].
Năm
1947, Ngài chính thức sử dụng pháp hiệu Minh Đăng Quang và bắt đầu công cuộc hành
đạo, thuyết pháp, thâu nhận đệ tử, xây dựng tịnh xá… Từ đây, Ngài và chúng đệ tử
cất bước theo lời Đức Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho
quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích,
vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người” [Kinh Tương ưng bộ 2013: 78].
Từ
đó đến năm 1954, Đoàn Du tăng Khất sĩ do Ngài lãnh đạo đã hoằng pháp không ngừng
nghỉ khắp các tỉnh thành ở Tây và Đông Nam Bộ. Song song trong thời gian
đó, Ngài biên soạn tác phẩm Chơn lý, gồm
69 bài pháp, viết bằng chữ Quốc ngữ. Bộ sách là sự tóm tắt tinh hoa tư tưởng từ
hai truyền thống Phật học Nam tông và Bắc tông, mà thời điểm ấy kinh điển đang
nằm sâu trong Hán tạng và Pāli tạng.
Đầu
năm 1954, Đức Tổ sư thông báo Ngài chuẩn bị đi tu tịnh ở “núi lửa”. Ngày 1
tháng 2 năm Giáp Ngọ 1954 (Âm lịch), trên đường đi từ Sa Đéc sang Cần Thơ, khi
gần đến bến phà Cái Vồn (Vĩnh Long), Ngài bị ông Trần Văn Soái (Năm Lửa) - Tổng
tư lệnh Lực lượng Quân đội Hoà Hảo ra lệnh cho thuộc cấp bắt giữ. Từ đó, Đức Tổ
sư vắng bóng đến nay.
3. Quá trình phát triển của Đạo Phật Khất
Sĩ Việt Nam
Năm 1947, Đức Tổ
sư Minh Đăng Quang thâu nhận các đệ tử xuất gia đầu tiên gồm bốn đệ tử nam, sáu
đệ tử nữ, một chú tiểu khoảng 10 tuổi [Thích Giác Toàn 2015: 88]. Hội chúng An
cư kiết hạ năm đầu tiên tại làng Phú Mỹ [Hành Vân 2016: 97]. Khi đó, các vị Khất
sĩ gọi Ngài là Sư trưởng. Năm 1948, Sư trưởng Minh Đăng Quang và các đệ tử bắt
đầu hành đạo đến Sài Gòn và các tỉnh miền Đông. Tại Sài Gòn, do dân chúng cảm mến
gương hạnh của các vị Khất sĩ, nên Tăng đoàn được mời An cư kiết hạ năm thứ hai
tại chùa Kỳ Viên.
Năm 1948, Sư
trưởng kiến tạo ngôi đạo tràng đầu tiên là tịnh xá Pháp Vân, kế là tịnh xá Trúc
Viên (về sau đổi tên là Ngọc Thuận), rồi đến tịnh xá Ngọc Viên, cả ba đều tọa lạc
tại Vĩnh Long. Từ đó, tịnh xá Ngọc Viên trở thành trung tâm hoằng pháp của Đạo
Phật Khất Sĩ Việt Nam. Năm 1949, đại lễ Tự tứ và Vu-lan-bồn lần đầu tiên được tổ
chức trọng thể tại đây.
Từ những định
hình cơ bản về vật chất và con người, Đoàn Du tăng Khất sĩ đẩy mạnh công cuộc
hoằng pháp ở nhiều địa phương. Tính đến năm 1954, Sư trưởng đã thâu nhận hơn
100 Tăng Ni, cảm hóa hàng vạn cư sĩ, xây dựng trên 20 ngôi tịnh xá. Cần lưu ý,
dù Ngài không chính thức công bố thành lập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ về mặt
hành chánh, nhưng danh xưng nầy đã xuất hiện nhiều lần trong Chơn lý và các giấy tờ của Tăng Ni.
Lễ Tự tứ năm
1953, Sư trưởng giao phó trách nhiệm quản lý giáo hội cho Thượng tọa Giác
Chánh. Cuối năm đó, Ngài bổ sung thêm hai vị Giác Tánh và Giác Như. Sau khi
Ngài vắng bóng vào năm 1954, hội chúng tiếp tục hành đạo theo đường lối đã ấn định.
Trong các năm tiếp theo, Đoàn Du tăng Khất sĩ do Thượng tọa Giác Chánh dẫn đầu đã
tổ chức nhiều chuyến hoằng pháp ra miền Trung, giáo pháp Khất Sĩ bắt đầu bén rễ
trên vùng đất nầy.
Từ đó, các giáo
đoàn hình thành. Tuy nhiên thời bấy giờ, các đơn vị nầy được gọi là “đoàn” và danh
xưng gắn liền với pháp hiệu Trưởng đoàn, chưa gọi là “giáo đoàn” và đánh số thứ
tự như ngày nay. Năm 1957, Đoàn Thượng tọa Giác Tánh, Đoàn Thượng tọa Giác An, Đoàn
Thượng tọa Giác Nhiên lần lượt ra đời. Năm 1960, Đoàn Thượng tọa Giác Lý được thành
lập. Năm 1962, Đoàn Thượng tọa Giác Huệ hình thành.
Danh xưng Giáo
hội Tăng-già Khất Sĩ có từ thời Sư trưởng Minh Đăng Quang, nhưng không phải tổ
chức có tư cách pháp nhân. Năm 1964, ba Thượng tọa Giác Nhiên, Giác Nhu, Giác
Tường vận động thành lập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam, tổ chức nầy chính
thức ra đời vào năm 1966. Bên cạnh đó, Thượng tọa Giác Huệ thành lập Giáo hội
Khất Sĩ Việt Nam vào năm 1971. Ni sư Huỳnh Liên dẫn dắt hội chúng Tỳ-kheo-ni từ
năm 1947, đến năm 1958 thành lập Giáo hội Ni giới Khất Sĩ Việt Nam. Các tổ chức
nầy hoạt động tương đối độc lập.
Như vậy, cho đến
trước năm 1975, Phật giáo Khất Sĩ tồn tại ba tổ chức giáo hội gồm Giáo hội Ni
giới Khất Sĩ Việt Nam, Giáo hội Khất Sĩ Việt Nam và nòng cốt là Giáo hội
Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam (với năm đoàn). Ngoài ra, một số vị xuất gia theo
giáo pháp Khất Sĩ rồi đi tu tịnh, sau đó thâu nhận đệ tử và hình thành những
nhóm Khất sĩ riêng lẻ.
Năm 1981, các
đoàn thể Phật giáo Khất Sĩ tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở
thành hệ phái Khất Sĩ bên cạnh hai hệ phái Bắc tông và Nam tông. Lúc nầy, các
giáo đoàn có danh xưng theo số thứ tự, từ Giáo đoàn I đến Giáo đoàn VI. Từ đó đến
nay, Phật giáo Khất Sĩ ổn định và phát triển trên tinh thần hòa hợp như Đức Phật
từng dạy: “Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tụ họp trong niệm đoàn kết,
giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết, thời này
các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm” [Kinh Trường Bộ 2013: 281].
Từ khi các giáo
đoàn ra đời, rồi đến các giáo hội hình thành, cuối cùng là sự hiệp nhứt hệ
phái, dù mỗi đoàn thể Khất Sĩ có những vị lãnh đạo khác nhau, nhưng tất cả đều
mặc nhiên xem Trưởng lão Giác Chánh (1912 - 2004) là lãnh đạo tinh thần tối cao
của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Do đó, Ngài được tôn là Đệ nhị Tổ sư.
4. Những nét đặc trưng của Phật giáo Khất Sĩ
Với tôn chỉ “Nối
truyền Thích Ca chánh pháp”, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang có nguyện vọng xây dựng
Tăng đoàn theo mô hình thời Đức Phật. Trọng tâm của chí nguyện nầy là quan điểm
về Khất sĩ. Khất sĩ là người xuất gia có đời sống giản dị, ba y một bát, không
tài sản, hằng ngày khất thực độ đời. Có thể
nói, chính phương pháp khất thực giúp Phật giáo Khất Sĩ đến với quần chúng một
cách rộng rãi, đó là một trong những nguyên nhân chủ đạo khiến hệ phái phát triển
nhanh chóng.
Về giáo pháp, phần
lớn tư tưởng chủ đạo trong bộ Chơn lý
xuất phát từ Phật giáo Nguyên thủy. Bên cạnh đó, Đức Tổ sư tiếp nhận có chọn lọc
một số tư tưởng từ Phật giáo Đại thừa. Song, đối với những vấn đề thuộc triết học
Đại thừa được tiếp nhận, Ngài đều giải thích qua lăng kính thực tiễn và gần gũi
với quan điểm Nguyên thủy. Điều đó mang đến sự độc đáo cho tư tưởng của Phật giáo
Khất Sĩ.
Đức Tổ sư bám
sát theo đường lối tu tập do Đức Phật đề ra, với ba trụ cột là Giới, Định, Huệ.
Ngài khẳng định: “Người Khất sĩ chỉ có ba pháp tu học vắn tắt là: Giới, Định,
Huệ” [Tổ sư Minh Đăng Quang 2016: 166]. Trong Phật giáo, ba yếu tố nầy là sự
rút gọn của Bát Thánh đạo. Đức Phật dạy: “Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức
là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh
tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này Ānanda, đây là truyền thống tốt đẹp được
Ta thiết lập, và truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn” [Kinh
Trung bộ 2012: 109].
Về giới luật, Đức
Tổ sư rất coi trọng, quan điểm ấy được thể hiện rất nhiều lần trong Chơn lý. Do đó, một trong những công việc
quan trọng của Ngài trong gần mười năm hoằng pháp là hoàn thiện hệ thống giới
luật cho các hàng đệ tử gồm cư sĩ, Sa-di và Sa-di-ni, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Phật
giáo Khất Sĩ sử dụng giới bổn của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) mà Phật giáo Đại
thừa Việt Nam hành trì. Ngoài ra, Phật giáo Khất Sĩ có thêm những quy định biệt
truyền.
Đặc biệt, Đức Tổ
sư đề cao Tứ y pháp: (1) Người tu xuất gia chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội
thuyết pháp được ăn tại chùa. (2) Người tu xuất gia phải lượm những vải bỏ mà
đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận. (3) Người tu xuất
gia phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá, một cửa thì
được ở. (4) Người tu xuất gia chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi
đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường, thì được dùng [Tổ sư Minh Đăng Quang
2016: 272].
Sau cùng, bên cạnh
giáo pháp và giới luật, văn hóa là một bình diện thể hiện rõ nét đặc trưng của
Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Đức Tổ sư chú trọng xây dựng nền Phật giáo phù hợp với
văn hóa Việt Nam, giảm bớt sự ảnh hưởng từ văn hóa các quốc gia lân cận. Để làm
được điều đó, Ngài kiến tạo hệ thống văn hóa đặc thù cho Phật giáo Khất Sĩ. Chẳng
hạn kiến trúc tịnh xá bát giác, đơn giản hóa nghi lễ, đọc tụng kinh kệ bằng tiếng
Việt, bày trừ mê tín dị đoan…
Ngài nhận định
rất chính xác rằng “đạo
giáo là do trình độ của chúng sanh dân tộc”, từ đó dẫn đến sự khác biệt. Để rồi
chúng trở thành rào cản cho con người, mà thực chất con đường đi đến giác ngộ
không có sự phân chia. Ngài cho rằng: “Phật
là giác chơn, là cái biết thật tự nhiên, là nghĩa lý của tiếng Phật, mục đích của
cái biết nơi mình, chớ không phải mê tín mờ quáng, mà tự trói mình trong chữ Phật,
tiếng đạo, hay tông giáo riêng biệt!” [Tổ sư Minh Đăng Quang 2016: 733]. Do đó, nếu ai cũng
đều thực hành đúng chánh pháp, đạo Phật sẽ hiệp hòa. Ngài tuyên bố: “Việt
Nam đạo Phật không có phân thừa.”
5. Kết luận
Trong bối cảnh
đen tối của đất nước Việt Nam thời thuộc địa, vùng đất Nam Bộ đã nở rộ các phong
trào tôn giáo hết sức đa dạng và phức tạp. Phật giáo thời kỳ nầy rơi vào khủng
hoảng, nhiều cá nhân và tập thể đã thực hiện những biện pháp nhằm cải cách đạo
Phật. Trong đó, nổi bật là phong trào Chấn hưng Phật giáo của Phật giáo Bắc tông,
sự truyền bá Phật giáo Nam tông vào Việt Nam, khuynh hướng tích hợp Phật giáo
vào các tôn giáo mới… Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã xuất hiện và lựa chọn một
con đường khác biệt.
Ngài nhận thấy,
hai truyền thống Thượng tọa bộ và Đại thừa đều có những mặt tích cực và hạn chế,
nhưng tựu trung con đường của Phật giáo đưa con người đến giác ngộ. Từ đó, Ngài
một mặt tiếp nhận và biến đổi các giá trị từ hai nền tư tưởng Phật học một cách
có chọn lọc, một mặt sáng tạo những giá trị mới để phù hợp với dân tộc và thời
đại. Do vậy, Phật giáo Khất Sĩ đơn giản hóa về hình thức, nhưng lại rất chặt chẽ
về nội dung. Điều đó giải thích vì sao hệ phái nầy dù xuất hiện không quá lâu,
nhưng phát triển mạnh mẽ, trở thành một mẫu hình tiêu biểu cho Phật giáo Việt
Nam thời hiện đại.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí
Văn hóa Phật giáo, số 386, 2022 & in
trong sách Phong vị Nam Hà, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2024)
________________________
CHÚ THÍCH:
* Tạp chí Văn hóa Phật giáo khi đăng tải bài viết nầy đã biên tập một số chi tiết không chính xác. Do đó, tác giả công bố bài viết gốc tại webiste nầy. Quý độc giả có nhu cầu tham khảo, xin vui lòng sử dụng bài viết tại website nầy làm bản chính thức.
1. Chữ “huờn” có vần “uơn” chứ không phải vần “ươn” như nhiều tài liệu viết sai. Đây là biến âm của chữ “hoàn” mà người Việt ở Tây Nam Bộ chịu ảnh hưởng từ cách phát âm của người Hoa nhóm phương ngữ Triều Châu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hành Vân (2016), “Cần có một tiểu sử
hoàn chỉnh về Đức Tổ sư Minh Đăng Quang”, trong Nhiều tác giả, Hệ phái Khất Sĩ: Quá trình hình thành, phát
triển và hội nhập, Nxb Hồng Đức.
2. Hoa Ngọc (2013), “Những lời kể về Tổ
sư Minh Đăng Quang”, Website Đạo Phật Khất
Sĩ (www.daophatkhatsi.vn), 10/3/2013.
3. Kinh Trung bộ
(2012), Tập II, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
4. Kinh Trường bộ (2013),
Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
5. Kinh Tương ưng bộ (2013), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
6. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Chơn lý, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
7. Thích Giác Toàn (2015), “Đạo Phật Khất
Sĩ Việt Nam: Ánh đạo vàng lan tỏa”, trong Nhiều tác giả, Phật giáo vùng Mê-kông:Ý thức môi trường và toàn cầu hóa, Nxb Đại học
Quốc gia TP.HCM.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét