Khi tán thán Đức Phật, hàng đệ tử thường ca ngợi Ngài là bậc tự mình giác ngộ, không thầy chỉ dạy. Tuy nhiên, lời tán thán ấy chắc hẳn khiến không ít người băn khoăn về quá trình Thái tử Siddhāttha xuất gia tìm đạo, vai trò và ảnh hưởng của những người thầy mà Ngài từng theo học, sự tự tu và tự chứng của Ngài…
1. Quá trình xuất gia tìm đạo
*
Quyết
chí xuất gia
Chúng
ta biết, Đức Phật là Thái tử Siddhāttha Gotama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm), con vua
Suddhōdana (Tịnh Phạn), tiểu quốc Sakya (Thích Ca). Là một bậc vương giả, Ngài
có tài sản, danh vọng, địa vị, gia đình… và trên hết là có cả một vương quốc.
Thế nhưng, Ngài từ bỏ tất cả để xuất gia.
Ngài
nhận thức rằng con người bị chi phối bởi sanh, già, bệnh, chết, nhiễm ô… do vậy
muốn đi tìm con đường vượt thoát những khổ đau ấy. Kinh Thánh cầu (Kinh Trung bộ)
tường thuật: “Khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của
tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng,
nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một người đi
tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ.” [1]
Do
xuất thân đặc biệt như thế, nên việc Thái tử xuất gia được đánh giá là sự từ bỏ
hy hữu. Bởi, khi đã có đời sống hưởng thụ dục lạc đủ đầy, mấy ai có thể từ bỏ?
Ngược lại, với cái nhìn sâu sắc về cuộc sống, Ngài nhận ra rằng chính lòng tham
ái đời sống dục lạc đã trói buộc con người, trở thành tác nhân gây ra đau khổ. Vậy
con đường nào giúp Ngài và nhân loại thoát khỏi khổ đau? Câu hỏi đó thôi thúc
Ngài cất bước.
*
Tìm
thầy học đạo
Buổi
đầu, Thái tử theo học với hai đạo sĩ nổi tiếng thời bấy giờ là Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta.
Ngài nhanh chóng thông suốt giáo lý và thành tựu các thiền chứng của các vị thầy.
Thấy được tố chất đặc biệt của Ngài, hai người thầy đều mời Ngài ở lại cung
lãnh đạo đồ chúng của họ. Tuy nhiên, Ngài đã từ chối và tiếp tục ra đi tìm đạo.
Bởi vì, với giáo pháp của hai vị thầy, Ngài nhận định: “Pháp này không hướng đến
yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an
tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn”
(Kinh Thánh cầu, Kinh Trung bộ).
[2]
Bồ-tát
không phủ nhận vai trò của những người thầy. Có thể nói, những gì mà Ngài học
được từ các đạo sĩ đã góp phần làm nền tảng cho sự thành đạo của Ngài. Song, những
gì các vị thầy đã giảng dạy là phương tiện tạm thời, có thể giúp hành giả chứng
đắc các tầng thiền định, nhưng không đưa đến giải thoát. Nếu khi đó, Bồ-tát chấp
nhận lời đề nghị của hai đạo sĩ, Ngài sẽ có được hội chúng tín đồ đông đảo mà
các vị ấy đã thiết lập. Tuy nhiên, mục tiêu tối thượng của Ngài là giải thoát,
chứ không phải địa vị lãnh đạo. Và sau đó, Ngài đã trải qua quá trình tự tu tập
mà không có sự hướng dẫn từ đạo sư.
*
Tu
tập khổ hạnh
Sau
khi từ giã hai vị thầy, Bồ-tát Bồ-tát đến rừng Khổ hạnh ở Uruvelā để tu tập khổ
hạnh cùng năm vị đạo sĩ gồm Koṇḍañña
(Kiều-trần-như), Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, Assaji. Thời bấy giờ, lối tu khổ hạnh
được xem là cao thượng và tối thắng trong đời sống tôn giáo Ấn Độ. Ngài đã thực
hành khổ hạnh, bần uế, yểm ly, độc cư đến độ vượt hơn sự nỗ lực của các đạo sĩ
cùng tu.
Tuy
vậy, Bồ-tát nhận thấy rằng: “Với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không
chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh” (Đại kinh Saccaka, Kinh Trung bộ). [3] Ngược lại, một thể trạng kiệt quệ không thể nào
đưa đến giác ngộ. Do đó, Ngài mạnh dạn từ bỏ phương pháp khổ hạnh mà mình đang
thực hành.
Nhà
Phật thường khuyến khích hàng đệ tử về tinh thần bi - trí - dũng. Từ bi phải gắn
với trí tuệ, nhưng không thể thiếu sự dũng mãnh, để chiến thắng những tác động
trở ngại từ bên ngoài, lẫn chiến thắng chính mình. Trong Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy: “Dầu tại bãi chiến trường / Thắng ngàn
ngàn quân địch / Tự thắng mình tốt hơn / Thật chiến thắng tối thượng.” [4]
Quả thật, khi từ bỏ lối tu khổ hạnh mà mình đã theo đuổi suốt sáu
năm dài, Ngài đã một lần nữa chiến thắng chính mình.
2. Quá trình tự tu và tự chứng
Rời
Uruvelā, Bồ-tát du hành đến một khu rừng bên bờ sông Nerañjara, bắt đầu thiền định
duới một gốc cây assattha (cây bồ-đề). Từ những kinh nghiệm đã trải qua, Ngài
nhận thấy cả dục lạc và khổ hạnh đều là những khuynh hướng cực đoan, do đó Ngài
lựa chọn con đường Trung đạo. Về sau, kinh nghiệm nầy được Đức Thế Tôn nhắc lại
trong Kinh Chuyển pháp luân:
“Có hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, một người
xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai? Một là đắm say trong các dục,
hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích.
Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục
đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo do Như
Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn.” [5]
Bồ-tát
lần lượt trải qua bốn tầng thiền là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
Tiếp đến, Ngài đạt được Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Đêm trăng
tròn tháng Vesākha (tháng Tư âm lịch), Thái tử Siddhāttha Gotama chứng quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác vào năm 35 tuổi. Sự kiện nầy có ý nghĩa rất quan
trọng, nó đánh dấu con người trở thành bậc Giác ngộ, đồng thời mở ra con đường
giải thoát cho chúng hữu tình có cơ hội bước qua một cách bình đẳng. Con đường ấy
chính là “vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ”.
Cần
lưu ý, Đức Phật nhận thấy bốn tầng thiền và bốn tầng định chưa đưa đến giải
thoát hoàn toàn, nhưng vẫn có giá trị trong chặng đường tu tập, do đó Ngài vận
dụng chúng làm nền tảng cho sự giác ngộ. Từ thiền định, Ngài dùng trí tuệ để
quán chiếu mà đắc quả Chánh đẳng giác. “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong
sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
tĩnh như vậy” (Đại kinh Saccaka,
Kinh Trung bộ), [6] Ngài lần
lượt dẫn tâm và hướng tâm đến thành tựu ba minh.
Điều
đó cho thấy, tuệ giác mới thật sự là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tiến
trình giải thoát của đạo Phật. Đức Thế Tôn không thừa nhận mình là thần linh,
có thể chứng đạo thông qua các yếu tố huyền bí, trái lại Ngài nhấn mạnh đạo quả
giác ngộ đến từ sự nỗ lực tự thân với trí tuệ sáng suốt. Bên cạnh đó, giác ngộ
là tiến trình diễn ra tuần tự, chứ không đột ngột. Sau khi trải qua bốn tầng
thiền, Ngài lần lượt chứng đắc ba minh trong ba canh giờ (Ấn Độ), đồng nghĩa
kéo dài suốt một đêm.
Sau
khi giác ngộ, Đức Phật không đặt con người ở vị thế quỵ lụy trước đạo quả của
mình, trái lại Ngài khẳng định ai cũng có khả năng giác ngộ. Đối với đạo Phật,
con người là đối tượng trung tâm trong lộ trình tu tập, kết quả tốt hay xấu
hoàn toàn thuộc phụ vào chính mình. Trong Kinh
Pháp cú, Đức Thế Tôn dạy: “Tự mình làm điều ác / Tự mình làm nhiễm ô / Tự
mình không làm ác / Tự mình làm thanh tịnh / Tịnh, không tịnh tự mình / Không
ai thanh tịnh ai.” [7]
Tuy nhiên, khi không cầu cạnh thần linh, con người phải có trách nhiệm với chính mình. Do đó, không phải ai tu tập đều đạt kết quả như nhau, mà phụ thuộc vào nghiệp lực và sự tinh tấn của mỗi người. Đức Thế Tôn nêu lên ví dụ rằng, không phải ai được chỉ đường đi đến thành Rājagaha (Vương Xá) đều có thể đi đến được, ở đây cũng vậy, Như Lai chỉ là người chỉ đường (Kinh Gaṇaka Moggallāna, Kinh Trung bộ). [8]
Bên cạnh việc không lệ thuộc vào thần linh, con người cũng không phải lệ thuộc vào chân lý. Trong Kinh Ví dụ con rắn (Kinh Trung bộ), Đức Phật tuyên bố: “Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các ông cần hiểu ví dụ cái bè… Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.” [9] Giáo pháp Thế Tôn cũng như chiếc bè, nếu sử dụng đúng chức năng thì sẽ phát huy hiệu quả. Trái lại, nếu sử dụng sai chức năng, chiếc bè không thể nào đưa con người đi đến nơi cần đến.
3. Lời kết
Qua
tìm hiểu về quá trình xuất gia, tìm đạo, tu chứng của Đức Thế Tôn, người đời
sau có thể đúc kết nhiều bài học quý giá làm hành trang cho lộ trình tu tập của
bản thân. Khi nhận thấy những phương pháp không phù hợp, chưa đi đến mục đích rốt
ráo, chúng ta cần mạnh dạn thay đổi, thay vì cố gắng bám níu vô ích. Sự giác ngộ
phụ thuộc vào mỗi cá nhân, điều quan trọng là sự nỗ lực như thế nào trên hành
trình ấy.
VĨNH
THÔNG
(Bài đăng trên Báo Giác ngộ, số
1170, 2022)
_______________________
CHÚ
THÍCH:
1. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh
Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 214.
2. Kinh Trung bộ
(2012), Tập I, Sđd, tr. 217.
3. Kinh Trung bộ
(2012), Tập I, Sđd, tr. 306.
4. Kinh Tiểu bộ
(2015), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 56.
5. Kinh Tương ưng bộ
(2013), Tập II, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 783.
6. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.
307.
7. Kinh Tiểu bộ (2015), Tập I, Sđd, tr. 65.
8. Kinh Trung bộ (2012), Tập II, Thích Minh
Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 329.
9. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr.
179.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Kinh Tiểu bộ
(2015), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
2. Kinh Trung bộ
(2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
3. Kinh Trung bộ
(2012), Tập II, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
4. Kinh Tương ưng bộ (2013), Tập II, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét