Lần giở từng trang Kinh Trung bộ - một trong năm bộ kinh thuộc kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật trải khắp các xứ sở quanh vùng Đông Bắc Ấn Độ. Chúng ta có cơ hội lắng nghe những cuộc thảo luận, những lời giáo hóa, những cách hành xử… mà Đức Thế Tôn dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Đồng thời, có cả những lời Ngài tự thuật về chính cuộc đời mình.
Trước
nay, hầu hết mọi người đều ca ngợi rằng Đức Phật từ bỏ ngai vàng là sự từ bỏ vĩ
đại. Tuy nhiên, Ngài không chỉ có một lần từ bỏ và đó cũng không hẳn là sự từ bỏ
lớn nhứt, mà còn nhiều sự từ bỏ khác. Trong đó, Đức Thế Tôn có bốn sự từ bỏ cao
thượng, để lại bài học quý giá, đáng cho người đời sau suy gẫm.
Thứ
nhứt, từ bỏ đời sống phú quý. Chúng ta biết, Đức Phật
vốn là Thái tử Siddhāttha Gotama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm), con vua Suddhōdana (Tịnh
Phạn), tiểu quốc Sakya (Thích Ca). Từ lúc sanh ra đến lúc trưởng thành, Thái tử
sống trong sự sung túc cùng cực về vật chất. Ngài có tài sản, danh vọng, địa vị,
gia đình… và trên hết là có cả một vương quốc.
Đó
là những điều mà bao nhiêu con người trên địa cầu nầy mải miết tìm kiếm. Trái lại,
Thái tử có tất cả, nhưng Ngài từ bỏ tất cả. Ngài nhận ra rằng con người bị chi
phối bởi sanh, già, bệnh, chết, nhiễm ô… nhưng chính con người lại làm nô lệ
cho sự sanh, già, bệnh, chết, nhiễm ô…
Trong
Kinh Thánh cầu, Đức Phật tự thuật: “Khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen
nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc
dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.” [1]
Do
xuất thân đặc biệt như thế, nên việc Bồ-tát xuất gia được mọi người đánh giá là
sự từ bỏ hy hữu. Bởi, mấy ai có thể từ bỏ đời sống hưởng thụ dục lạc. Tuy
nhiên, tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ thấy nhiều sự từ bỏ khác
cao thượng không kém.
Thứ
hai, từ bỏ địa vị lãnh đạo tôn giáo. Khi Bồ-tát theo học với
hai đạo sĩ nổi tiếng thời bấy giờ là Āḷāra
Kālāma và Uddaka Rāmaputta, Ngài nhanh chóng thông suốt giáo lý của họ và chứng
đắc các thiền chứng của họ. Thấy được tố chất đặc biệt của Bồ-tát, cả hai người
thầy đều mời Ngài cùng lãnh đạo hội chúng với họ.
Ngài
một lần nữa từ chối, vì các thành quả đó chưa đi đến mục tiêu tối thượng là giải
thoát: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến
đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến
giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn” (Kinh
Thánh cầu). [2]
Điều
nầy khiến chúng ta đặt ra câu hỏi: Bồ-tát xuất gia có phải vì để trở thành nhà
lãnh đạo tôn giáo? Mặc dầu trên thực tế, sau khi giác ngộ, Đức Phật thật sự trở
thành nhà lãnh đạo tôn giáo. Song, đó không phải mục đích của Ngài. Bởi, nếu đó
là mục đích, thì Ngài đã chấp nhận lời mời lãnh đạo hội chúng từ thầy mình, để
đạt được mục đích rồi.
Khi
đó, những tín đồ đang sẵn sàng đặt dưới sự lãnh đạo của Ngài, đây là điều Ngài
có thể đạt được trong tầm tay, nếu chấp nhận lời mời. Trái lại, đối với chân lý
mà Ngài tìm cầu giác ngộ, thì lúc bấy giờ Ngài vẫn chưa biết có thể đạt được
hay không. Nói cách khác, Bồ-tát từ bỏ điều nắm chắc có được, để đi tìm điều
chưa biết có hay không.
Thứ
ba, từ bỏ phương pháp sai lầm. Sau khi từ giã hai vị
thầy, Bồ-tát tu khổ hạnh cùng năm vị đạo sĩ gồm Koṇḍañña (Kiều-trần-như),
Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, Assaji. Thời bấy giờ, lối tu khổ hạnh đang trở thành
trào lưu thịnh hành trong đời sống tôn giáo Ấn Độ. Ngài đã thực hành khổ hạnh,
bần uế, yểm ly, độc cư đến độ vượt hơn sự nỗ lực của năm bạn cùng tu.
Tuy
vậy, Bồ-tát nhận thấy rằng: “Với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không
chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh” (Đại kinh Saccaka). [3] Ngược lại, một thể
trạng kiệt quệ không thể nào đưa đến giác ngộ. Do đó, Ngài từ bỏ phương pháp khổ
hạnh mà mình đang thực hành.
Thấy
được sự sai lầm, công khai thừa nhận mình sai lầm, mạnh dạn bước khỏi sai lầm -
đây là điều rất đáng để chúng ta nghĩ suy. Từ xưa đến nay, nhiều người đi vào
những con đường sai lầm, sau đó biết rõ mình đang sai lầm, nhưng không mấy ai
dám thừa nhận điều đó và bước ra khỏi con đường ấy. Một mặt, có thể con đường ấy
mang đến cho họ những lợi ích nào đó, khiến họ không nỡ từ bỏ. Mặt khác, khi bước
ra khỏi sai lầm, họ sợ bị người đời chế giễu, vì sĩ diện nên họ không đủ dũng
khí để làm điều đó.
Thứ
tư, từ bỏ sự trói buộc của chân lý. Chân lý ra đời để cởi
trói cho con người, chứ không phải càng buộc chặt thêm con người. Nếu con người
vận dụng chân lý một cách đúng đắn và linh hoạt sẽ có được hiệu quả tích cực.
Trái lại, nếu con người vận dụng chân lý một cách máy móc và sai lầm sẽ biến
chính mình trở thành nô lệ. Song, không phải ai cũng có thể nhận thức rõ điều
đó.
Trong
Kinh Ví dụ con rắn, Đức Phật tuyên bố: “Ta thuyết pháp như chiếc bè để
vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các ông cần hiểu ví dụ
cái bè… Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.” [4] Giáo pháp
Thế Tôn cũng như chiếc bè, nếu sử dụng đúng chức năng thì sẽ phát huy hiệu quả.
Chiếc bè có công dụng đưa người qua sông, không phải để vác trên vai, đội trên
đầu, di chuyển trên đường bộ… Nói cách khác, không phải cứ mang chiếc bè khư
khư bên mình mọi lúc mọi nơi.
Cho
nên, giáo lý nhà Phật có tính thực tiễn cao, đưa đến giải thoát con người, chứ
không trói buộc con người. Đó là:
“Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí chứng hiểu” (Kinh Ví dụ tấm vải). [5]
Tóm
lại, trong cuộc đời Đức Phật, nếu sự từ bỏ ngôi vua là sự từ bỏ
liên quan đến vật chất, thì ba sự từ bỏ về sau là sự từ bỏ liên quan đến tinh
thần. Ngài từ bỏ vị trí lãnh đạo tôn giáo vì đó không phải là mục đích tối thượng,
Ngài từ bỏ phương pháp sai lầm vì nó không đưa đến mục đích tối thượng, rồi khi
đã đạt được mục đích tối thượng thì Ngài vẫn không trói buộc vào những gì đã chứng
ngộ.
Cuộc
đời Đức Phật là cuộc đời một vị đạo sư lớn của nhân loại. Người đời sau ghi nhận
về Ngài qua cả hai phương diện là lịch sử và huyền sử. Đó cũng là điểm chung đối
với các danh nhân tôn giáo lỗi lạc trên thế giới xưa nay. Tuy nhiên, nếu tạm
gác qua những yếu tố mang tính huyền sử, thì cuộc đời lịch sử của Đức Phật đã để
lại nhiều bài học sâu sắc, khiến chúng ta phải suy ngẫm.
VĨNH
THÔNG
(Bài đăng trên
Báo Giác ngộ, số 1192, 2023)
________________
CHÚ THÍCH:
1. Kinh
Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 214.
2. Kinh
Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr. 217.
3. Kinh
Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr. 306.
4. Kinh Trung bộ (2012),
Tập I, Sđd, tr. 179.
5. Kinh
Trung bộ (2012), Tập I, Sđd, tr. 62.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét