1. Dẫn nhập
Trong hàng ngũ đệ tử của Đức Phật Thích Ca, có thể nói Tôn giả Rāhula là trường hợp rất đặc biệt. Bởi lẽ, trước tiên ngài xuất thân là con ruột của Thái tử Siddhattha - người về sau trở thành đấng Giác ngộ. Không chỉ thế, ngài còn là người con trong giáo pháp Thế Tôn, đón nhận sự giáo dưỡng trực tiếp và sâu sắc từ Đức Phật.
Tôn giả Rāhula không chỉ thừa hưởng đời
sống vinh hoa do cha để lại, mà còn thừa hưởng trí tuệ, lòng từ bi và nhiều đức
tính khác từ cha mình. Nối bước cha, ngài từ bỏ tất cả phú quý, cất bước trên lộ
trình giải thoát. Với tư chất vốn có, kết hợp sự nỗ lực đáng khâm phục, ngài nhanh
chóng gặt hái được thành tựu trên con đường tu tập, trở thành tấm gương sáng
cho Tăng đoàn và hậu thế.
Bài viết nầy góp phần phác thảo rõ
nét hơn về cuộc đời, đạo nghiệp, phẩm hạnh của Tôn giả Rāhula, thông qua nguồn
tư liệu thu thập từ các thư tịch Phật giáo đáng tin cậy có liên quan đến ngài. Trong
đó, nguồn tư liệu chủ đạo được sử dụng trong bài viết nầy là các tác phẩm thuộc
truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda) như Kinh tạng (Sutta Piṭaka), Luật tạng (Vinaya Piṭaka), Đại Phật sử (Mahā Buddhavaṃsa)…
2. Khái quát thân thế của Tôn giả Rāhula
Tôn giả Rāhula (La-hầu-la) là con
trai của Thái tử Siddhattha (Tất-đạt-đa) và Công chúa Yasodharā (Da-du-đà-la),
sanh ra ở thành Kapilavatthu (Ca-tì-la-vệ), tiểu quốc Sakya (Thích-ca). Chúng
ta biết, Siddhattha là con của vua Suddhōdana (Tịnh Phạn) và Yasodharā là con của
vua Suppabuddha (Thiện Giác). Như vậy, từ khi sanh ra, Rāhula đã có được địa vị
cao cấp trong xã hội.
Cái tên Rāhula có nghĩa là chướng ngại,
hàm ý cậu bé là một trong những chướng ngại cho Thái tử Siddhattha trên con đường
xuất thế. [1] Lý
giải sâu xa hơn, tên gọi Rāhula bắt nguồn từ tên gọi Rāhu. Đây là tên một asura
(a-tu-la) trong văn hóa Ấn Độ, vốn mang thân hình rắn, có thể nuốt mặt trăng và
gây ra hiện tượng nguyệt thực.
Khi con trai chào đời, Thái tử
Siddhattha quyết định xuất gia để tìm kiếm con đường giải thoát, lúc đó Ngài 29
tuổi. Từ đó, Rāhula mặc nhiên được xem là người kế vị vương quốc Sakya, khi tuổi
đời còn rất nhỏ. Do vậy, dù kinh điển không ghi chép nhiều về cuộc sống thời
thơ ấu của Rāhula ở hoàng cung, nhưng chúng ta có thể phỏng đoán đó là một đời
sống thọ hưởng những điều kiện vật chất đầy đủ, nhận được sự yêu thương từ
hoàng tộc.
Cần nói thêm, Luật tạng của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda)
cho rằng, Công chúa Yasodharā thọ thai vào đêm Thái tử Siddhārtha xuất gia. Sáu
năm sau, Rāhula chào đời. [2] Do sanh muộn, hoàng tộc tình nghi Công chúa
Yasodharā không giữ tiết hạnh và Hoàng tử Rāhula không phải là con của Thái tử
Siddhārtha. Do đó, hai mẹ con đã vượt qua những thử thách để chứng minh sự
trong sạch.
Quan điểm nầy về sau được Phật giáo Đại
thừa tiếp nhận. Phật giáo Đại thừa có bài tán Chiên đàn phản ánh giai thoại đó: “Chiên Đàn hải ngạn / Lư nhiệt
thanh hương / Gia Du tử mẫu lưỡng vô ương / Hỏa nội đắc thanh lương / Chí tâm
kim tương / Nhất chú biến thập phương” (Chiên đàn bờ biển / Lò nóng hương thơm
/ Mẹ con Gia Du khỏi tai ương / Lửa rực hóa dịu êm / Nguyện đem lòng thành / Một
nén tỏa mười phương).
Lên 7 tuổi, Hoàng tử Rāhula đón cha
mình trở về vương thành Kapilavatthu, nhưng trong một vai trò khác, bởi lúc nầy
Ngài đã trở thành bậc Giác ngộ. Chúng ta có thể chú ý, khi Công chúa Yasodharā
gặp lại Đức Phật, kinh điển không ghi chép về sự có mặt của Rāhula. Đến hôm
sau, chú bé mới gặp mặt cha mình. Chi tiết đó phần nào cho thấy, Rāhula nhận được
sự giáo dục tốt từ gia đình, không xen vào công việc của người lớn, dù họ là
cha mẹ mình. Tuy nhiên, Đại sự
(Mahāvastu) của Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda) cho rằng, hoàng gia đã ngăn
cản Rāhula gặp gỡ cha mình, nhưng cuối cùng Hoàng tử vẫn khăng khăng muốn biết
mặt cha. [3]
Hôm sau, khi Đức Phật đang đi từ xa đến,
Công chúa Yasodharā nói với con: “Này Rāhula, người kia là cha của con. Hãy đi
và cầu xin phần thừa kế.” Hoàng tử Rāhula đến Đức Thế Tôn, lần đầu tiên gặp gỡ
cha mình, cậu bé nói: “Này vị Sa-môn, bóng che của Ngài thật an lạc.” Sau đó,
Rāhula đi theo sau và nói với Đức Phật: “Này vị Sa-môn, hãy ban cho con phần thừa
kế.” Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất): “Này Sāriputta,
như thế thì ngươi hãy cho Hoàng tử Rāhula xuất gia.” [4]
Tài sản thế gian là những thứ dẫn dắt
con người đến tham lam, đau khổ và luân hồi. Do vậy, Đức Phật đã ban cho Rāhula
bảy tài sản của bậc thánh (thất thánh tài) là đức tin, giới hạnh, tàm, quý, kiến
thức, xả ly và trí tuệ. Từ ngày ấy, Hoàng tử Rāhula gia nhập vào
hàng ngũ Tăng-già, trở thành vị Sa-di đầu tiên, thành viên nhỏ tuổi nhứt trong
hội chúng đệ tử Thế Tôn.
3. Những phẩm hạnh của Tôn giả Rāhula
Tôn giả Rāhula là con trai của Đức Phật,
do đó khi gia nhập Tăng đoàn, ngài trở thành tâm điểm chú ý của mọi người,
không chỉ hội chúng Tỳ-kheo mà còn quần chúng xã hội. Bởi, ai cũng muốn biết Đức
Thế Tôn sẽ đối đãi và dạy dỗ con trai mình như thế nào trong đời sống xuất gia.
Và có lẽ trước ai hết, bản thân Rāhula ý thức rõ điều đó, cho nên ngài không ngừng
nỗ lực tu học và phát huy nhiều đức tính cao đẹp, dù tuổi đời còn rất nhỏ.
3.1. Tinh tấn
Khi còn là Sa-di, Rāhula đã nổi tiếng
là người ham học. Vào mỗi sáng, ngài có thói quen nhặt một nắm cát và tự nhủ:
“Cầu mong cho tôi có được những lời giáo giới từ Đức Thế Tôn hoặc từ thầy tế độ
của tôi nhiều như những hạt cát trong tay của tôi.” [5] Điều đó cho thấy ý chí
cầu học rất lớn của Rāhula.
Không chỉ học tập qua sự dạy dỗ trực
tiếp từ Đức Phật, Rāhula còn học tập với chư vị Tôn giả Sāriputta, Moggallāna, Ānanda…
Trước những bậc tôn trưởng, ngài bày tỏ sự tôn kính và sẵn lòng đón nhận lời
giáo huấn từ các vị ấy. Ngài từng thưa với Đức Phật:
“Thường chung sống người hiền
Con không có khinh miệt
Người cầm đuốc loài người
Thường được con tôn trọng.” [6]
Nỗ lực học hỏi là một trong những đức
tính tốt đẹp của Rāhula mà các Tỳ-kheo trong Tăng đoàn bàn luận và tán thán.
Khi nghe những lời bàn tán ấy, Đức Thế Tôn cũng không tiếc lời khen ngợi
Rāhula. Trong một lần, Ngài tuyên bố: “Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, ưa thích
học tập, tối thắng là Rāhula.” [7]
Từ những nỗ lực to lớn ấy, Tôn giả
Rāhula giác ngộ từ khi rất trẻ tuổi. Khi chia sẻ kinh nghiệm tu học của mình,
Tôn giả Rāhula nhắc nhở hội chúng rằng: “Là Tỳ-khưu trong hàng ngũ Sa-môn, phải
lấy pháp hành làm y chỉ, cả ngày lẫn đêm đừng rời khỏi pháp hành, phải tinh tấn
để tăng trưởng và hoàn thiện pháp hành của mình.” [8]
3.2. Khiêm cung
Khiêm cung là một đức hạnh nổi bật của
Tôn giả Rāhula. Kinh Tiểu bộ ghi chép
một sự việc đầy xúc động. Một thời, Đức Thế Tôn ở tịnh xá Badarika tại Kosambī.
Bấy giờ, nhiều cư sĩ đến nghe pháp vào ban đêm và ngủ lại, gây ra sự lộn xộn. Đức
Phật đặt ra giới: “Tỷ-kheo nào nằm ngủ với người chưa thọ Ðại giới là phạm tội
Pācittiya.”
Vốn trước đó, Sa-di Rāhula ở chung với
các Tỳ-kheo. Sau khi Đức Phật chế giới, các Tỳ-kheo nói với Rāhula: “Hiền giả
La-hầu-la, Thế Tôn đã đặt ra học giới. Hiền giả nay hãy tìm chỗ ở của mình.”
Rāhula không tìm được nơi cư trú riêng, bèn vào phòng vệ sinh của Đức Phật để ở
tạm qua đêm. Khi Đức Phật phát hiện và hỏi han sự tình, Sa-di nhẹ nhàng đáp: “Vì
không có chỗ ở, bạch Thế Tôn, trước đây các Tỷ-kheo cho con ở chung; nay vì sợ
phạm tội, không cho con chỗ ở; vì nghĩ rằng đây là chỗ không va chạm một ai,
nên con nằm ở đây!”
Khi nghe câu trả lời, Đức Thế Tôn bất
ngờ và xúc động. Ngài suy nghĩ: “Với La-hầu-la, các Tỷ-kheo còn vất bỏ như vậy,
thì đối với các lớp chúng trẻ mới xuất gia, có gì họ không làm được”. Do đó,
hôm sau Ngài họp Tăng chúng và thay đổi giới luật: “Các ông được phép cho người
chưa thọ Ðại giới ở chung một hay hai ngày. Ðến ngày thứ ba, cho họ ở ngoài,
sau khi biết chỗ ở của họ.”
Sự việc nầy được các Tỳ-kheo tán
thán: “Khi được hỏi chỗ ở của mình, La-hầu-la không nói: ‘Ta là con Đức Thế Tôn.’
La-hầu-la không chống đối một Tỳ-kheo nào, nhưng đã đến phòng vệ sinh.” [9]
3.3. Hiếu thảo
Mặc dù những ghi chép về Rāhula trong
kinh điển không nhiều, tuy nhiên có những câu chuyện khiến người đời sau không
khỏi xúc động và cảm phục. Khi Rāhula còn là vị Sa-di, một lần nọ ngài đến thăm
mẹ Yasodharā - bấy giờ đã trở thành Tỳ-kheo-ni. Hôm ấy, bà bị đau bụng. Rāhula
hỏi mẹ rằng, căn bịnh nầy có thể dùng thứ gì để chữa trị được. Bà trả lời: “Con
ơi, nếu như hồi còn ở nhà thì cơn đau này thường được chữa bằng nước xoài có
pha với nước đường; nhưng giờ đây, chúng ta đang sống bằng khất thực thì kiếm
đâu ra thứ đó?”
Nghe vậy, Rāhula trăn trở và quay về
tìm cách. Song, ngài không thưa lên Đức Thế Tôn sự việc trên, mà trình bày với
thầy mình là Tôn giả Sāriputta. Hôm sau, ngài Sāriputta vào cung vua Pasenadi
xin nước xoài, rồi đưa cho Rāhula mang về. Thấy Tôn giả Sāriputta không dùng nước
xoài tại cung vua mà mang đi, nhà vua sai thị vệ đi tìm hiểu xem ngài mang nước
xoài cho ai.
Sau khi thị vệ tìm hiểu sự tình và trở
về trình báo, vua tự nghĩ: “Nếu bậc Ðạo sư trở về đời thế tục, Ngài sẽ là vị hoàng
đế của cả thiên hạ, Sa-di La-hầu-la sẽ là hoàng thái tử, Thánh nữ Tỷ-kheo-ni ấy
sẽ là hoàng hậu. Tất cả thế giới này đều thuộc quyền các vị ấy. Ta cần phải đến
hầu thăm các vị ấy. Các vị đang sống gần đây, không nên để mất thì giờ.” Từ
hôm đó, vua Pasenadi phát tâm cúng dường nước xoài cho Tỳ-kheo-ni Yasodharā cho
đến lúc khỏi bịnh hẳn. [10]
4. Sự thọ giáo của Tôn giả Rāhula với Đức Phật
Trong văn hóa Á Đông, Trang Tử cho rằng:
“Việc dẫu nhỏ chẳng làm cũng chẳng nên, con dẫu hiền chẳng dạy cũng chẳng tỏ”
(Sự tuy tiểu bất tác bất thành, tử tuy hiền bất giáo bất minh). [11] Quan điểm
nầy có thể nhận thấy rõ đối với trường hợp Rāhula. Dù cậu bé có những đức tính
tốt đẹp, nhưng Đức Thế Tôn luôn chăm chút dạy dỗ cậu bé một cách chu đáo.
Về sự thọ học của Rāhula với Đức Phật,
kinh điển đề cập không nhiều, trong đó chủ yếu là ba bài kinh trong Kinh Trung bộ, gồm: Kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala, Tiểu kinh Giáo giới La-hầu-la, Đại
kinh Giáo giới La-hầu-la. Ngoài ra, những chủ đề nầy được nhắc đến trong Kinh Tương ưng bộ và Kinh Tăng chi bộ với nội dung khá tương
đồng. Ba bài kinh nói trên trong Kinh
Trung bộ tương ứng với ba giai đoạn trong quá trình tu tập của Rāhula. Qua
đó, chúng ta có thể nhận thấy, Đức Thế Tôn dạy Rāhula những nội dung phù hợp từng
độ tuổi, đi kèm những thí dụ sinh động, mang tính cảnh tỉnh cao.
Đức Phật dạy Kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala khi Rāhula còn rất nhỏ. Nội
dụng bài kinh nầy, Ngài nhắc nhở Rāhula không nói dối, từ đó mở rộng đến giữ
gìn ba nghiệp là thân, miệng, ý. Đức Thế Tôn khẳng định: “Ta quyết không nói
láo, dầu nói để mà chơi”, đồng thời căn dặn thêm: “Này Rāhula, sau khi phản tỉnh
nhiều lần, hãy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu
nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp.” [12]
Khi Rāhula bước vào tuổi dậy thì, Đức
Thế Tôn giảng dạy phương pháp quán niệm hơi thở qua Đại kinh Giáo giới La-hầu-la. Ngài dạy tu tập như đất, nước, lửa,
gió, hư không: Khi những cảm xúc tích cực hay tiêu cực khởi lên, không nắm giữ
tâm, không lo âu, không dao động, không nhàm chán… Ngài dạy tu tập tâm từ, bi,
hỷ, xả, bất tịnh, vô thường để đối trị với tâm sân, hại, bất lạc, hận, tham ái,
ngã mạn.
Sau khi Rāhula thọ giới Tỳ-kheo vào
năm 20 tuổi, Đức Phật giảng dạy Tiểu kinh
Giáo giới La-hầu-la. Nhằm mục
đích “huấn luyện Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc”, [13] Ngài tiếp
tục đào sâu về tuệ quán giải thoát. Đức Thế Tôn một lần nữa nhấn mạnh ba đặc
tính là vô thường, khổ, vô ngã mà Ngài từng giảng dạy hội chúng nhiều lần trước
đây. Cuối cùng, Rāhula giác ngộ.
H. W. Schumann nhận định: “Mối tương
quan giữa Đức Phật và Sa-di Rāhula đầy tin cẩn và thiện cảm, song không thân ái
hoặc mật thiết, vì điều này theo quan điểm Đức Phật có nghĩa là tạo nên một mối
ràng buộc nội tâm có thể gây khổ đau. Vì vậy cũng dễ hiểu, kinh điển quả thực
đã không tường thuật những cuộc nói chuyện riêng tư giữa hai cha con: các kinh
giáo giới Rāhula cũng không khác gì về hình thức với những kinh bậc đạo sư giảng
cho chúng Tỳ-kheo cả.” [14]
5. Kết luận
Tôn giả Rāhula xuất gia lúc bảy tuổi
và giác ngộ rất sớm khi vừa ngoài hai mươi tuổi. Ngài là một cậu bé may mắn. Từ
nhỏ, ngài sanh ra trong gia đình vương giả, thọ hưởng đầy đủ những điều kiện tốt
đẹp. Đặc biệt, cha của ngài là bậc Giác ngộ, mang đến ánh sáng chân lý cho cuộc
đời. Không những vậy, khi lớn lên, ngài thọ học với những bậc Tôn giả uyên bác
như Sāriputta, Moggallāna, Ānanda…
Rāhula là Sa-di đầu tiên trong hàng
ngũ Tăng-già. Do đó, ngài nhận được sự quan tâm, chăm sóc, yêu thương, đồng thời
cả sự chú ý, khắt khe, thử thách từ các bậc trưởng thượng. Tuy vậy, không vì
mình là thành viên nhỏ tuổi nhứt trong Tăng đoàn, càng không vì mình là con của
Đức Phật, mà ngài tỏ ra dể duôi trong quá trình tu học. Trái lại, Tôn giả Rāhula luôn tinh tấn học hỏi và thực tập những
lời dạy của Đức Thế Tôn và các bậc tôn trưởng.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhận thấy
nhiều đức tính đáng quý ở Tôn giả Rāhula. Chẳng hạn, ngài phát huy hạnh kham nhẫn
trước những khó khăn, nêu cao tinh thần hiếu thảo trong đối xử với đấng sanh
thành… Có thể nói, cuộc đời và đạo hạnh của Tôn giả Rāhula là biểu tượng sáng
ngời cho hình ảnh vị Tỳ-kheo trẻ trong Tăng đoàn của Đức Phật xa xưa cũng như
hôm nay.
VĨNH THÔNG
(Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 418,
2024)
_______________________
CHÚ THÍCH:
1. G. P. Malalasekera (2007), Dictionary of Pali proper names, Vol.
II, Motilal Banarsidass, tr. 739.
2. Robert E. Buswell Jr & Donald S. Lopez Jr (2013), The Princeton dictionary of Buddhism,
Princeton University Press, tr. 1700.
3. Telwatte Rahula (1978), A critical study of the Mahāvastu,
Motilal Banarsidass, tr. 134.
4. Tạng
Luật: Đại phẩm (2009), Tập 1, Indacanda dịch, Buddhist Cultural Centre, tr.
205
5. Mingun Sayadaw (2019), Đại
Phật sử, Tập 6A, Minh Huệ dịch, Nxb Hồng Đức, tr. 220.
6. Kinh
Tiểu bộ (2015), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 402.
7. Kinh
Tăng chi bộ (2015), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 59.
8. Kinh
Mi Tiên vấn đáp (2014), Giới Nghiêm dịch & Giới Đức hiệu đính, Nxb Tôn
giáo, tr. 931.
9. Kinh
Tiểu bộ (2015), Tập III, Thích Minh Châu & Trần Phương Lan dịch, tr.
89-90.
10. Kinh Tiểu bộ (2015), Tập IV, Thích Minh Châu & Trần Phương Lan
dịch, Nxb Tôn giáo, tr. 198-199.
11. Minh tâm bửu giám (1968), Trương Vĩnh Ký dịch, Nxb Hoa Tiên, tr.
136.
12. Kinh Trung bộ (2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo,
tr. 508.
13. Kinh Trung bộ (2012), Tập II, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo,
tr. 623.
14. H. W. Schumann (2000), Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch,
Nxb TP.HCM, tr. 291.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. G. P. Malalasekera (2007), Dictionary of Pāli proper names, Vol.
II, Motilal Banarsidass.
2. Kinh Mi Tiên vấn đáp (2014), Giới Nghiêm dịch & Giới Đức hiệu đính, Nxb Tôn giáo.
3. Kinh Tăng chi bộ (2015), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
4. Kinh Tiểu bộ (2015),
Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
5. Kinh Tiểu bộ (2015),
Tập III, Thích Minh Châu & Trần Phương Lan dịch, Nxb Tôn giáo.
6. Kinh Tiểu bộ
(2015), Tập IV, Thích Minh Châu & Trần Phương Lan dịch, Nxb Tôn giáo.
7. Kinh Trung bộ
(2012), Tập I, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
8. Kinh Trung bộ
(2012), Tập II, Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo.
9. Mingun Sayadaw (2019), Đại Phật sử, Tập 6A, Minh Huệ dịch, Nxb
Hồng Đức.
10. Robert E. Buswell Jr & Donald S.
Lopez Jr (2013), The Princeton dictionary
of Buddhism, Princeton University Press.
11. H. W. Schumann (2000), Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch,
Nxb TP.HCM.
12. Tạng Luật: Đại phẩm (2009), Tập 1, Indacanda dịch, Buddhist Cultural Centre.
13. Telwatte Rahula (1978), A critical study of the Mahāvastu,
Motilal Banarsidass.
14. Minh tâm bửu giám (1968), Trương Vĩnh Ký dịch, Nxb Hoa Tiên.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét