Tháng 4 năm 2023, An Giang có thêm một thị xã mới: Tịnh Biên. Đây là thị xã biên giới thứ hai của tỉnh, cùng với Tân Châu đã trở thành thị xã vào năm 2009, nếu không nói xa hơn là Châu Đốc trước khi trở thành thành phố vào năm 2013 đã từng là thị xã biên giới. Song, Tịnh Biên là một trường hợp rất khác biệt. Bởi, không như Châu Đốc và Tân Châu vốn là phố thị truyền thống từ buổi đầu khai phá, Tịnh Biên thuở ban sơ được xem như chốn “sơn cùng thủy tận” cuối trời Tây Nam đất nước. Có lẽ ít ai ngờ, chốn ấy lại trở thành đô thị sung túc và giàu tiềm năng phát triển trong tương lai.
Nằm trong vùng Thất
Sơn, Tịnh Biên hiện nay là địa phương có nhiều núi nhứt ở An Giang, với 19 núi
trong tổng số 37 núi trên địa bàn tỉnh (trong khi đó hai huyện kế cận là Tri
Tôn có 7 núi và Thoại Sơn có 9 núi). Có lẽ, đây cũng là đơn vị hành chánh cấp
huyện có nhiều núi nhứt ở Tây Nam Bộ. Ngoài núi Cấm được nhiều người biết đến
là ngọn núi cao nhứt đồng bằng sông Cửu Long với độ cao 716 mét, thị xã còn sở
hữu nhiều ngọn núi nổi tiếng khác như núi Trà Sư, núi Kéc, [1] núi Dài Năm
Giếng, núi Đất, núi Cậu, núi Phú Cường (Tà Béc), núi Bà Đắt, núi Bà Đội Om, núi
Voi (Bà Khẹt)… Đặc điểm đó cũng là một trong những lý do khiến Tịnh Biên được
khai phá trễ hơn các nơi khác ở phương Nam. Bởi, trong mắt những lưu dân vốn
quen thuộc với đồng bằng, vùng đồi núi là một khung cảnh lạ lẫm, bí ẩn, nguy
hiểm…
Bên cạnh đó,
thiên nhiên quá khắc nghiệt. Mùa nước nổi, mấy hòn núi cứ như cũng nổi lên trơ
trọi giữa biển nước mênh mông không thấy bến bờ. Khi những nơi đất thấp đã bị ngập,
cư dân chỉ có thể co cụm trên các đồi núi cao ráo, nhưng nơi ấy lại không thuận
lợi cho canh tác nông nghiệp. Đến mùa khô, những cánh đồng cỏ dại cằn cỗi trải
bạt ngàn dưới chân núi như vô tận, thiếu nước trở thành thực trạng triền miên. Giai
thoại dân gian về ngọn núi Bà Đội Om đã phần nào phản ánh tình cảnh nầy. Câu
chuyện đại khái là một người phụ nữ hằng ngày đội cà om [2] trên đầu, lên núi
tìm nước suối mang về cho gia đình sử dụng vào mùa khô, về sau hóa đá. Có thể
nói, những điều kiện thời tiết của Tịnh Biên ngày xưa quả đúng như câu nói mà dân
gian Việt Nam thường ví von: “Chó ăn đá, gà ăn sỏi.”
Đâu chỉ vậy, từ
thời mở cõi, vùng biên địa nầy thường xuyên bị giặc Xiêm sang đánh phá. Năm
1757, vua Chân Lạp là Nặc Tôn cắt vùng đất Tầm Phong Long dâng cho chúa Đàng
Trong là Nguyễn Phước Khoát, trong đó có địa bàn An Giang ngày nay. Đến năm
1867, An Giang bị Pháp chiếm. Vậy mà trong 110 năm ấy, An Giang có ba lần bị giặc
Xiêm gây chiến, mà Tịnh Biên là chiến trường ác liệt, đó là vào các năm 1771 -
1772, 1883 - 1884, 1842 - 1845. Phải chăng, cái tên Tịnh Biên được ra đời từ
ước mơ của tiền nhân về một vùng biên giới bình yên?
Với địa hình
hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên bị giặc giã, lại gặp nhiều thú
dữ… như vừa nêu, vùng đất nầy không phải là ưu tiên hàng đầu của lưu dân trong
quá trình khai phá phương Nam. Trái lại, đó là lựa chọn sau cùng, khi không còn
nơi nào khác tốt hơn. Người tìm đến xứ Bảy Núi rất phức tạp. Có người thiện, đó
là những cao nhân thoát tục, ẩn sĩ lánh đời, tìm kiếm “thánh địa” để tu hành.
Có kẻ ác, đó là những tướng cướp, giới giang hồ, thành phần chống triều đình, tìm
kiếm nơi hoang vu đóng “bản doanh”. Ở giữa hai thái cực đó là những nông dân
lầm than, lâm vào cảnh khốn cùng, đành phó mặc cho cuộc thế đẩy đưa. Thậm chí,
đây cũng là nơi triều đình thi hành án biệt xứ dành cho những phạm nhân mắc tội
đày ra biên ải. Tóm lại, cư dân đi khẩn hoang theo quy luật “đất lành chim
đậu”, trong khi đó Thất Sơn thật sự là “miền đất dữ”!
Quả vậy, trong
các thư tịch vào triều vua Gia Long, chúng ta không tìm thấy tên thôn ấp ở vùng
Thất Sơn được ghi chép, mặc dù vẫn ghi nhận là có dân cư sinh sống ở nơi đây.
Thời điểm nầy, lưu dân phần lớn khai phá dọc theo hai bên bờ sông Tiền và sông
Hậu. Dãy đồi núi hoang dã phía biên giới Tây Nam vẫn là nơi sơn lam chướng khí
mà ít có ai dám bén mảng tới. Năm 1824, kinh Vĩnh Tế ra đời, nối Châu Đốc với
Hà Tiên, trong đó có một phần lớn đi ngang qua vùng Thất Sơn. Từ đây, ghe
thuyền tấp nập ngược xuôi, góp phần đưa miền biên viễn dần trở nên bớt hoang
vu, dân cư bắt đầu tìm đến lập nghiệp.
Dưới triều vua
Minh Mạng, trên địa bàn tương ứng với thị xã Tịnh Biên ngày nay, một số thôn ấp
đầu tiên đã xuất hiện như Nhơn Hòa, Vĩnh Thạnh, An Thạnh, An Nông, Phú Cường,
Vĩnh Trung. Năm 1839, phủ Tịnh Biên [3] thuộc tỉnh Hà Tiên được
thành lập, bao gồm hai huyện là Hà Âm (bờ Bắc kinh Vĩnh Tế) và Hà Dương (bờ Nam
kinh Vĩnh Tế). Năm 1842, dưới triều vua Thiệu Trị, phủ Tịnh Biên sáp nhập vào
tỉnh An Giang.
Để quy tụ dân
cư về sinh sống ở vùng đồi núi hoang vu nầy, triều vua Tự Đức có những chính
sách khuyến khích khẩn hoang, hình thành đồn điền. Đặc biệt, những tù nhân được
đưa đến An Giang khai khẩn như một hình thức xử phạt, nhưng nhờ vậy góp phần
vào công cuộc sản xuất lúa gạo, đồng thời là thành phần đắc lực khi biên giới
có chiến sự. Sau gần hai thập kỷ, số thôn ấp và số dân cư gia tăng rõ rệt, tình
hình sản xuất nông nghiệp phát triển hơn, sản lượng lúa cũng nâng cao.
Ngoài ra, một
phong trào khẩn hoang khác rất đáng chú ý, đó là trại ruộng của đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương. Tôn giáo bản địa nầy ra đời ở An Giang vào năm 1849 do Đoàn Minh Huyên (Đức
Phật Thầy Tây An) sáng lập. Ông rao giảng thuyết Tận thế, khi đó đời Hạ nguơn
chấm dứt, hội Long Hoa được mở ra ở Thất Sơn để thiết lập đời sống mới Thượng
nguơn. Năm 1851, ông và các đại đệ tử hướng dẫn tín đồ đến khai hoang dưới chân
núi Kéc với mô hình trại ruộng, đó là nơi các tín đồ vừa canh tác, vừa tu hành.
Từ đây, hai ngôi làng đã ra đời là Hưng Thới và Xuân Sơn, năm 1890 sáp nhập
thành Thới Sơn đến nay.
Ngoài người
Việt (Kinh), người Khmer và người Hoa cũng là những chủ thể văn hóa của Tịnh
Biên. Người Khmer đã định cư lâu đời ở Tịnh Biên và hiện nay chiếm gần 30% dân
số toàn thị xã. Dọc theo những cung đường vòng quanh thị xã, chúng ta sẽ bắt
gặp những ngôi chùa Khmer lộng lẫy nối tiếp nhau, góp phần tô điểm cho hương
sắc văn hóa vùng Thất Sơn. Bên cạnh đó, nhiều địa danh ở Tịnh Biên bắt nguồn từ
tiếng Khmer như hồ Ô Tức Sa, kinh Tha La, núi Tà Béc, doi Bà Khẹt, đường Cà
Hom, ấp Mằng Rò… Đặc biệt, người Khmer đã mang đến vùng biên giới An Giang một
thực hành văn hóa độc đáo mà không nơi nào có được, đó là hội Đua bò Bảy Núi -
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Người Hoa ở
Tịnh Biên xưa đa phần thuộc nhóm Triều Châu (Tiều), xen lẫn một số ít thuộc nhóm
Khách Gia (Hẹ). Họ cư trú đông đảo ở chợ Nhà Bàn [4] và chợ Tịnh Biên, sống
bằng nghề buôn bán nhỏ, ẩm thực, thuốc Bắc… Ngày nay, dù di tích của người Hoa
ở Tịnh Biên không còn nhiều, nhưng văn hóa của họ đã để lại những dấu ấn không
hề nhỏ trong dòng chảy văn hóa địa phương. Chẳng hạn lễ Thanh minh hằng năm,
con đường từ Nhà Bàn vào Tịnh Biên luôn tấp nập những đoàn người tay xách nách
mang nào nhang đèn, hoa quả, nào trà bánh, rượu thịt… Khi đó, những sườn núi
trở nên tấp nập hẳn, đối lập với khung cảnh cô tịch thường ngày, người chết và
kẻ sống dường như hội tụ trong một không gian vừa linh thiêng, huyền ảo, vừa ấm
cúng, chân tình.
Năm 1867, người
Pháp đến. Dĩ nhiên mục đích của họ là khai thác thuộc, tuy vậy để phục vụ cho
công việc đó, họ đã xây dựng nhiều công trình có ích lợi cho dân sinh. Đó là
điều mà chúng ta không thể phủ nhận. Theo ghi nhận của người Pháp, khi họ đến,
vùng Bảy Núi có một số tuyến đường mòn có thể đi xe ngựa như Nhà Bàn - Nhơn
Hưng, Nhà Bàn - Tịnh Biên, Nhà Bàn - Vĩnh Trung - Tri Tôn, Tịnh Biên - Ba Chúc…
Sau đó, chúng được họ tiếp tục nâng cấp. Trong đó, con lộ huyết mạch Núi Sam -
Nhà Bàn được thi công vào năm 1893. Tất cả những tuyến đường nầy đến nay đều là
tuyến đường quan trọng của thị xã Tịnh Biên.
Đặc biệt, Pháp
xây dựng một công trình thủy lợi quan trọng trên kinh Vĩnh Tế mà ngày nay hiếm
còn ai biết đến, đó là bửng Cây Mít. “Bửng” là từ địa phương, có nghĩa là đập
ngăn nước. Cây Mít là địa danh, có người nói là vùng đất có nhiều mít, lại có
người cho rằng nói trại từ Cai Mít là ông Cai tên Mít ở trong làng, còn bản đồ
do Pháp vẽ năm 1878 ghi địa danh nầy là “Cai Mich”. Một công trình tương tự
cũng được xây dựng trên đoạn kinh Vĩnh Tế qua huyện Giang Thành (tỉnh Kiên
Giang), đó là bửng Đầm Chít.
Bửng Cây Mít có
tác dụng ngăn nước mặn từ Hà Tiên chảy ngược về vào mùa khô và xả bớt nước sông
Cửu Long ra biển Tây vào mùa nước nổi. Ở đây, bửng chắn lại dòng chảy của kinh,
bên dưới lắp những cánh cửa có thể chuyển động. Bờ bên kia, họ đào thêm một
dòng nước nhỏ hình cung, để ghe xuồng di chuyển qua dòng nước phụ nầy. Tuy
nhiên giờ đây, tất cả chỉ còn là phế tích, với trụ đá lớn đổ vỡ sát mé kinh, và
bao thứ gì khác nữa nằm dưới lòng nước, như câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt / Nước còn chau mặt với tang thương.”
Hai trăm năm đi
qua, có lẽ không là gì so với chặng đường hàng ngàn năm của đất nước. Song với
ngần ấy thời gian, miền cương thổ Tịnh Biên đã trải qua nhiều biến động. Thử vẽ
lại bức tranh vùng núi đồi Thất Sơn thời xa xăm, chúng ta thấy vài con đường
mòn, dăm nóc nhà thưa thớt, xung quanh là rừng rậm hoang vu, thú dữ có thể xuất
hiện bất cứ lúc nào, giặc ngoại xâm thường xuyên lăm le biên giới… Nhìn chung,
bao hiểm nguy từ thiên nhiên luôn rình rập trước cánh cửa nhỏ của những căn nhà
đơn sơ. Do vậy, người dân đến khai hoang nơi đây, dù dưới sự chỉ đạo của triều
đình, tôn giáo, hay tự phát thì đều là công việc đầy khó khăn.
Nhưng trái lại
ở đây, con người dễ dàng cảm nhận một nếp sống bình yên, gần gũi với thiên
nhiên, có thi vị, thậm chí là thoát tục. Trong tác phẩm Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (xuất bản năm 1909), Nguyễn Liên
Phong cũng nhận định: “Thất Sơn hòn dọc hòn ngang / Nói sao cho xiết cả ngàn
phong cương.” Người ta đến với miền biên giới bằng tinh thần lạc quan, không
chỉ tin tưởng vào những huê lợi mà núi rừng có thể cung cấp, mà còn tin tưởng
về sự “đổi đời” với cuộc sống mới trong tương lai đầy sung túc. Niềm lạc quan
đó giúp con người có thể đối mặt với những chông gai, cạm bẫy, chết chóc…
Có thể thấy,
Tịnh Biên là chốn hội tụ của tất cả những gì tích cực lẫn tiêu cực, thiện lẫn
ác, đẹp lẫn xấu - “thánh địa” của các tín đồ tôn giáo nhưng “chiến địa” của
những tù nhân bị đi đày. Người Việt, Khmer, Hoa, Pháp tìm đến với những mục
đích khác nhau, nhưng đều có những vai trò nhứt định trong tiến trình lịch sử
của xứ sở nầy. Tất cả trở thành người thiên cổ, nhưng họ đã để lại cho đời sau
một Tịnh Biên - vùng biên giới bình yên vững chãi ở cuối trời Tây Nam.
Ngày nay, không
chỉ có cảnh trí độc đáo là thế mạnh của vùng đất này, mà Tịnh Biên còn có nhiều
di tích, đặc sản và lễ hội vô cùng hấp dẫn. Núi Cấm, rừng tràm Trà Sư, trại
ruộng Thới Sơn, miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp… là những điểm đến luôn thu hút đông
đảo du khách quanh năm. Những lễ hội đầy màu sắc của cộng đồng Khmer như Chôl
Chnăm Thmây, Sen Đôn-ta, Óc Om-bóc, hội Đua bò Bảy Núi… khiến vùng núi rừng
Thất Sơn trở nên sống động trong mắt kẻ phương xa. Ngoài du lịch, kinh tế biên
mậu với Cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên là động lực thúc đẩy là động lực thúc đẩy sự
phát triển của thị xã Tịnh Biên nói riêng và tỉnh An Giang nói chung trong thời
đại hội nhập.
Con đường đến
thị xã Tịnh Biên là con đường từ Châu Đốc vào Nhà Bàn, dài khoảng 30 cây số, nằm
song song với kinh Vĩnh Tế. Song, nó không chỉ là con đường đơn thuần về mặt
địa lý, mà còn là con đường lịch sử thăng trầm qua hai thế kỷ. Đó là con đường
mà Thoại Ngọc Hầu và đoàn dân binh đào kinh Vĩnh Tế đã đi qua, Đức Phật Thầy
Tây An và những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đã đi qua, vô số lưu dân đã đi qua. Đó
là con đường mà người Việt đánh xe trâu chở nông cụ đi khai phá đất đồi núi,
người Khmer lỉnh kỉnh chở hàng hóa trên xe ngựa ra chợ bán. Đó là con đường đầy
trắc trở, gian khó, hiểm nguy… nhưng trên ấy chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp sự
hào hùng, bền bỉ, bao dung…
VĨNH THÔNG
(Tác phẩm đăng trên Tạp chí Thất Sơn, số 294, 2023)
_______________________
CHÚ THÍCH:
1. Trước nay tên núi được viết là “Két”, song về chính tả phải viết “Kéc” mới đúng. Chỉ có chim kéc là loài vẹt lớn, hoặc chim mòng két thuộc họ vịt, không có chim két. Do đó, chúng tôi viết là núi Kéc.
2. Chậu đựng nước bằng đất nung trong tiếng Khmer.
3. Tịnh Biên được thư tịch triều Nguyễn viết chữ Hán là “静邊”, trong đó chữ “静” có thể đọc là “Tịnh” hoặc “Tĩnh”. Các bản dịch chữ Quốc ngữ hiện nay thường viết là “Tĩnh Biên”, song theo chúng tôi, địa danh nầy từ xưa đã được gọi là Tịnh Biên và bảo lưu đến nay, chứ không có Tĩnh Biên.
4. Địa danh dân gian là Nhà Bàn, về sau viết nhầm thành Nhà Bàng và trở thành địa danh hành chánh. Do đó, chúng tôi viết Nhà Bàn khi nói về địa danh dân gian và Nhà Bàng khi nói về địa danh hành chánh.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét